Cuộc đời Marthe Robin - Khám phá mối quan hệ với Thiên Chúa - Lm. Peyrous

Cuộc đời Marthe Robin - Khám phá mối quan hệ với Thiên Chúa - Lm. Peyrous

Cuộc đời Marthe Robin - Khám phá mối quan hệ với Thiên Chúa - Lm. Peyrous

III. KHÁM PHÁ MỐI QUAN HỆ VỚI THIÊN CHÚA 

Trước tiên, chị Marthe học giáo lý tại Saint-Bonnet, vì khu xóm les Moilles trực thuộc giáo xứ này, nhưng lại cách xa hơn Châteauneuf. Cha sở Saint-Bonnet là cha Hippolyte Caillet đành cho phép chị Marthe đi học ở Châteauneuf: cha sở ở đây tên là Cluze. Chính cha sở dạy giáo lý, có bà quản gia (bà bếp) tiếp tay với Cha. Chị Marthe gặp khó khăn đôi chút vì phải học và trả bài giáo lý thuộc lòng, như người ta thường làm như vậy. Tại sao vậy? Chị vẫn cho thấy chị có trí nhớ đặc biệt. Nhưng chị không thích cách trình bày đức tin công giáo bằng những bài học thiên về luân lý và gây mặc cảm tội lỗi quá mức. Sau này chị nói: “Không có tình yêu trong sách giáo lý đó”. Và sự thực đúng như vậy. Sách giáo lý có lợi điểm là chính xác và đầy đủ, nhưng không cho thấy một sức thúc đẩy thiêng liêng nào và tôn giáo được trình bày dưới hình thức hẹp hòi. Trái lại, điều chị Marthe cần là cảm nghiệm về Thiên Chúa. Và đó là điều sắp xảy ra.

Thực vậy, chị Marthe rước lễ lần đầu ngày 15 tháng 8 năm 1912 “riêng” cùng với một anh bạn. Chị rước lễ trễ, vì chị mắc bệnh sởi đúng ngày ấn định cử hành ở giáo xứ. Lúc đó, có một tiếp xúc đầu tiên với Thiên Chúa: “Tôi tin rằng việc rước lễ riêng của tôi là việc Chúa chiếm hữu tôi. Tôi tin Chúa đã chiếm đoạt tôi ngay lúc đó. Việc rước lễ riêng của tôi là một sự gì rất dịu ngọt”. Hồi đó, người ta trao một xâu chuỗi cho các em. Chắc chắn trước đó chị Marthe chưa nhận được xâu chuỗi nào trong gia đình. Chị tập thói quen lần chuỗi: “Lúc tôi còn bé, khi vào làng mua sắm, tôi vẫn có xâu chuỗi trong túi và dọc đường tôi lần chuỗi”. Chị rước lễ trọng thể ngày 21 tháng 5 năm 1914. Xem ra lúc ấy chị thật sự ước ao, khi chăn  thú vật, đôi khi chị thu xếp để đi rước lễ. Chị đã được thân mật với Thiên Chúa và có thể nhận rước lễ và ngày Chủ nhật thấy dấu tác động của Chúa xung quanh chị: “Đôi khi những ước muốn cầu nguyện của tôi chắc chắn là điều chính Chúa tạo ra trong tôi. Vừa khi tôi không tế nhị đủ, Chúa nhắc tôi qua ước muốn đó và điều đó giống như tình thân mật với Thiên Chúa. Tôi tin là tôi đã cảm nghiệm Thiên Chúa: Vì tình trạng này còn hơn việc cầu nguyện. Vả lại tôi gặp thấy Ngài khắp nơi, trong thiên nhiên: Thiên nhiên đã giúp tôi nhận thấy Người, ngay lúc tôi còn bé. Tôi thấy Người trong tha nhân, nhất là trong các linh mục. Bản thân linh mục [1] thúc giục tôi cầu nguyện, dù không ai nói gì với tôi: khi nhìn thấy các linh mục, tôi luôn xúc động. Tại sao? Tôi khỏi cần hiểu. Tôi đã biết gì hơn những người khác? Tôi rất yêu thương các bệnh nhân. Tôi dám vượt qua đồi núi nếu người ta để tôi làm, để thăm một bệnh nhân, không phải để săn sóc, nhưng để bày tỏ lòng yêu thương”.

Khi rời trường học vào năm 1915, chị ở nhà lo giúp việc ở trang trại gia đình. Chị học làm cả ngàn nghề mà các phụ nữ nông thôn có thể làm. Ví dụ chăm sóc gia súc. Chị cũng được giao việc chăn nuôi và nặn sữa dê. Chị vẫn giữ tâm tình yêu thương thú vật. Chị cũng học làm bếp, chị học thêu. Những đồ thêu đẹp làm ở nông thôn là phương thế kiếm được tiền, dùng thời gian rảnh việc nông thôn trong mùa đông. Đó cũng là một cách bày tỏ một sự gì đó là của mình, thực hiện một tác phẩm mang vẻ đẹp. Chị Marthe rất khéo tay trong việc này, công việc đòi hỏi sử dụng các ngón tay cách chính xác đặc biệt. Chị chẳng hề rời cái đê thợ may.

Việc tương trợ hoạt động mạnh trong giới nông thôn. Chị đi xuống làng để mua sắm. Bà chị Gabrielle là thợ may. Marthe đem giao cho khách hàng những chiếc áo do bà chị may. Anh Serve, chồng của bà chị Célina đã đi ra chiến trường. Vợ có một con nhỏ và một em bé. Chị này phải lao động ngoài đồng. Chị Marthe đến ở giúp bà chị lúc chị này sanh đứa thứ hai. Chị Marthe ở lại đó sáu tháng. Suốt mùa đông 1915–1916. Và chị Marthe cũng sẽ trở lại năm sau. Chị quán xuyến công việc nhà của bà chị, sau này chị kể lại: “Tôi thường làm bếp với cháu Robert trên cánh tay”.

Sau đó chị trải qua một thời gian tương đối nguội lạnh: “Tôi nguội lạnh trong một thời gian, vào khoảng 14 tuổi, nhưng không lâu”. Chị nhanh chóng trở lại cuộc sống đức tin thời thơ ấu. Vì thế, vào lúc nhân cách của chị được hình thành, chị tỏ ra là một thanh nữ sáng trí, vui tươi, hướng tới tương lai, hay giúp đỡ, dễ dàng chọc ghẹo; do đó người ta thấy chị có óc khôi hài dễ dàng tiếp xúc với người khác. Chị có bản lĩnh. Lúc nhỏ đôi lúc chị dậm chân trong cơn giận. Tính hay sợ sệt cho nên chị không thích đi xa một mình tận Saint-Bonnet để mua những cuộn dây nhợ dùng trong công việc trồng thuốc lá. Nhưng chị cũng đi tới đó. Chị tập tự thắng mình và vâng phục. Chị là một cô nông dân bé nhỏ lành mạnh và đạo đức, nhưng chắc chắn cũng có nhiều người như cô, ở Pháp thời đó.


[1] Con người của vị linh mục.