Thư của Đức Thánh cha Phanxicô về vai trò của văn chương trong đào tạo

Thư của Đức Thánh cha Phanxicô về vai trò của văn chương trong đào tạo

Thư của Đức Thánh cha Phanxicô về vai trò của văn chương trong đào tạo

Trong một lá thư gửi các ứng viên linh mục cũng như các nhân viên mục vụ và tất cả các Kitô hữu, Đức Phanxicô nhấn mạnh “giá trị của việc đọc tiểu thuyết và thơ ca trong hành trình trưởng thành cá nhân”, bởi vì việc đọc sách mở ra những không gian nội tâm mới, làm phong phú, giúp đối mặt với cuộc sống và nhạy cảm với các vấn đề của tha nhân.

Qua thư này, Đức Thánh Cha đặc biệt « đề nghị một sự thay đổi triệt để trong phương pháp liên quan đến việc phải hết sức chú ý đến văn chương trong khuôn khổ đào tạo các ứng viên linh mục », bởi vì « việc quan tâm đến văn chương hiện nay không tìm được một chỗ thích đáng ». Ngài nhấn mạnh : « Cách tiếp cận này là không tốt. Nó là nguồn gốc của một hình thức làm nghèo nàn nghiêm trọng về trí thức và tinh thần đối với các linh mục tương lai ».

Cũng qua thư này, ý định của Đức Thánh Cha là « không chỉ dừng lại ở mức độ hữu ích cá nhân này, mà còn suy nghĩ về những lý do mang tính quyết định nhất để đánh thức niềm yêu thích đọc sách ».

Dưới đây là toàn văn lá thư của Đức Thánh Cha, được công bố vào ngày 4/8/2024 :

1. Ban đầu tôi đã viết một tựa đề liên quan đến việc đào tạo linh mục, nhưng sau đó tôi nghĩ rằng, theo cách tương tự, những điều này có thể được nói về việc đào tạo tất cả các tác nhân mục vụ, cũng như đối với bất kỳ Kitô hữu nào. Tôi muốn nói về tầm quan trọng của việc đọc tiểu thuyết và thơ ca trong hành trình trưởng thành cá nhân.

2. Thông thường, trong những kỳ nghỉ buồn chán, trong cái nóng và sự cô độc của những khu dân cư vắng vẻ, việc tìm một cuốn sách hay để đọc sẽ trở thành ốc đảo giúp chúng ta tránh xa những lựa chọn khác vốn không mang lại lợi ích gì cho chúng ta. Cũng có những lúc mệt mỏi, giận dữ, thất vọng, thất bại, và ngay cả trong lời cầu nguyện, khi chúng ta không tìm được sự bình yên trong tâm hồn, thì một cuốn sách hay sẽ giúp chúng ta vượt qua giông bão cho đến khi “tìm thấy một chút thanh thản”. Và có lẽ việc đọc sách này mở ra cho chúng ta những không gian nội tâm mới giúp chúng ta không nhốt mình vào những ý tưởng ám ảnh đang trói buộc chúng ta. Trước khi các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, điện thoại di động và các thiết bị khác trở nên phổ biến, thì kinh nghiệm này rất thường gặp, và những ai đã trải nghiệm đều biết tôi đang nói về điều gì. Đây không phải là thứ đã lỗi thời.

3. Không giống như các phương tiện nghe nhìn trong đó sản phẩm độc lập hơn và thời gian cho phép để “làm phong phú” câu chuyện và diễn giải nó thường hạn chế hơn, độc giả tích cực hơn nhiều khi đọc sách. Cách nào đó, họ viết lại tác phẩm, khuếch đại nó bằng trí tưởng tượng của mình, tạo ra một thế giới, sử dụng các khả năng, trí nhớ, ước mơ, lịch sử đầy kịch tính và biểu tượng của chính mình. Và những gì nổi bật từ đó là một tác phẩm rất khác với tác phẩm mà tác giả muốn viết. Do đó, một tác phẩm văn chương là một văn bản sống động và luôn phong nhiêu, có khả năng diễn đạt một cách mới mẻ theo nhiều cách và tạo ra một tổng hợp độc đáo với mỗi độc giả mà nó gặp. Khi đọc, người đọc được phong phú nhờ những gì họ nhận được từ tác giả, nhưng điều này cho phép họ đồng thời làm cho sự phong phú của chính họ được triển nở, để mỗi tác phẩm mới họ đọc đều đổi mới và mở rộng vũ trụ cá nhân của họ.

4. Điều này khiến tôi đánh giá rất tích cực sự kiện là, ít nhất là trong một số chủng viện, người ta vượt quá nỗi ám ảnh về màn hình – và những tin giả độc hại, hời hợt và bạo lực – để dành thời gian cho văn chương, cho những giây phút đọc thanh thản và vô tư, và nói về những cuốn sách này, mới hay cũ, vẫn tiếp tục nói với chúng ta rất nhiều điều. Nhưng, cách chung chung, cần phải tiếc nuối ghi nhận rằng, trong việc đào tạo những người hướng đến thừa tác vụ chức thánh, việc quan tâm đến văn chương hiện nay không tìm được một chỗ thích đáng. Thực tế, văn chương thường được coi là một hình thức giải trí, nghĩa là một biểu hiện nhỏ của văn hóa vốn không thuộc về con đường chuẩn bị, và do đó thuộc về kinh nghiệm mục vụ cụ thể, của các linh mục tương lai. Với một vài ngoại lệ, việc quan tâm đến văn học không được coi là cần thiết. Tôi muốn khẳng định rằng cách tiếp cận này là không tốt. Nó là nguồn gốc của một hình thức làm nghèo nàn nghiêm trọng về trí thức và tinh thần đối với các linh mục tương lai, những người do đó bị tước đi đặc quyền tiếp cận, thông qua văn chương, tới trái tim của nền văn hóa nhân loại và chính xác hơn là tới trái tim của con người.

5. Qua lá thư này, tôi muốn đề nghị một sự thay đổi triệt để trong phương pháp liên quan đến việc phải hết sức chú ý đến văn chương trong khuôn khổ đào tạo các ứng viên linh mục. Về vấn đề này, tôi thấy rất thích đáng điều mà một nhà thần học đã nói:

“Văn chương […] phát xuất từ nơi sâu thẳm bất khả giản lược nhất của con người, nơi mầu nhiệm của con người […]. Nó là cuộc sống tự nhận thức về chính mình khi nó đạt đến mức biểu đạt trọn vẹn, bằng cách kêu gọi mọi nguồn lực của ngôn ngữ. [1]

6. Do đó, văn chương, bằng cách này hay cách khác, phải đáp ứng những gì mỗi người mong muốn trong cuộc sống, vì nó có mối quan hệ mật thiết với sự tồn tại cụ thể của họ, với những căng thẳng thiết yếu, những mong muốn và ý nghĩa của họ.

7. Tôi đã học được điều này với các học trò của mình khi còn là một giáo viên trẻ. Từ năm 1964 đến 1965, ở tuổi 28, tôi là giáo viên văn chương ở Santa Fe trong một trường học của Dòng Tên. Tôi đã dạy hai năm cuối trung học và tôi phải chăm lo để học sinh của mình được học tác phẩm Le Cid. Nhưng các bạn trẻ lại không thích điều đó. Họ yêu cầu đọc García Lorca. Vì vậy, tôi đã quyết định rằng họ sẽ học Le Cid ở nhà và, trong giờ học, tôi sẽ bàn luận về những tác giả mà các bạn trẻ ưa thích. Tất nhiên, họ muốn đọc các tác phẩm văn chương đương đại. Nhưng, khi họ càng đọc những thứ thu hút họ vào thời điểm đó, thì họ càng có được sở thích chung hơn về văn học, thơ ca, rồi chuyển sang các tác giả khác. Cuối cùng, trái tim tìm kiếm nhiều hơn, và mỗi người đều tìm thấy con đường của mình trong văn học. [2] Chẳng hạn, tôi thích những nghệ sĩ bi kịch vì tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận tác phẩm của họ như của chính mình, như một sự thể hiện những bi kịch của chúng ta. Khi khóc cho số phận của các nhân vật, thực ra chúng ta đang khóc cho chính mình và sự trống rỗng, lỗi lầm, cô đơn của chúng ta. Tất nhiên, tôi không yêu cầu các bạn cũng đọc giống như tôi. Mỗi người sẽ tìm thấy những cuốn sách nói với cuộc sống của chính họ và sẽ trở thành những người bạn đường thực sự. Không có gì phản tác dụng hơn việc đọc theo nghĩa vụ, việc nỗ lực đáng kể chỉ vì người khác đã nói rằng điều đó là cần thiết. Không, chúng ta phải chọn đọc với sự cởi mở, ngạc nhiên, linh hoạt, bằng cách để mình được khuyên nhủ, nhưng cũng phải chân thành, cố gắng tìm ra điều chúng ta cần vào từng thời điểm của cuộc đời.

Đức tin và văn hóa

8. Hơn nữa, đối với một tín hữu chân thành muốn bước vào đối thoại với nền văn hóa của thời đại mình, hay đơn giản với cuộc sống của những con người cụ thể, thì văn chương trở nên không thể thiếu. Công đồng Vatican II khẳng định một cách chính đáng rằng “văn chương và nghệ thuật […] cố gắng diễn tả bản chất riêng của con người” và “làm sáng tỏ những khốn khổ và niềm vui, những nhu cầu và nghị lực”. [3] Quả thật, văn chương được lấy cảm hứng từ cuộc sống đời thường, từ những đam mê của nó và từ thực tại của những sự kiện như “hành động, công việc, tình yêu, cái chết và tất cả những điều nghèo nàn tràn ngập cuộc sống”. [4]

9. Làm thế nào chúng ta có thể đạt tới trung tâm của các nền văn hóa cổ xưa và mới mẻ nếu chúng ta phớt lờ, bác bỏ và/hoặc giảm thiểu thành im lặng những biểu tượng, thông điệp, sự sáng tạo và câu chuyện mà họ đã nắm bắt, và muốn bộc lộ cũng như gợi lên, những khát vọng và lý tưởng đẹp đẽ nhất của họ, cũng như những bạo lực, những nỗi sợ hãi và những đam mê sâu xa nhất của họ? Làm sao chúng ta có thể nói với trái tim con người nếu chúng ta phớt lờ, hạ thấp và không coi trọng “những câu chuyện” mà họ muốn thể hiện và phơi bày bi kịch về cuộc đời và cảm xúc của họ thông qua tiểu thuyết và thơ ca?

10. Sứ mạng của Giáo hội đã biết triển khai tất cả vẻ đẹp, sự tươi trẻ và mới mẻ của mình trong cuộc gặp gỡ với các nền văn hóa khác nhau – thường nhờ vào văn chương – trong đó Giáo hội đã bén rễ mà không ngại dấn thân và rút ra từ đó điều tốt nhất về ​​những gì Giáo hội đã tìm thấy. Đó là một thái độ vốn đã giải thoát Giáo hội khỏi cơn cám dỗ về một chủ thuyết duy ngã mù quáng và thủ cựu, vốn hệ tại ở việc tin rằng một ngữ pháp lịch sử-văn hóa nào đó có khả năng diễn tả tất cả sự phong phú và sâu sắc của Tin Mừng. [5] Nhiều lời ngôn sứ về sự bất hạnh nhằm gieo rắc nỗi tuyệt vọng ngày nay đều bắt nguồn từ khía cạnh này. Việc tiếp xúc với những phong cách văn chương và ngữ pháp khác nhau sẽ luôn cho phép đào sâu tính đa âm của Mặc Khải mà không làm nghèo nàn hoặc giản lược Mặc Khải thành các điều kiện lịch sử hoặc những cấu trúc tinh thần.

11. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà, chẳng hạn, Kitô giáo sơ khai đã nhận thức rõ ràng sự cần thiết phải đối chất chặt chẽ với nền văn hóa cổ điển thời đó. Một Giáo phụ Đông phương như Basile de Césarée, trong Diễn từ cho giới trẻ được soạn từ năm 370 đến năm 375, có lẽ gửi cho các cháu trai của mình, đã đề cao giá trị của văn học cổ điển – do những người éxothen (“những người bên ngoài”) tạo ra, như ngài đã gọi là các tác giả ngoại giáo – vừa vì tính lập luận của nó, tức là lógoi (“các diễn từ”) được sử dụng trong thần học và chú giải, vừa vì chứng từ của nó về cuộc sống, tức là práxeis (“hành vi, thái độ”) phải được tính đến trong tu đức và luân lý. Và ngài kết thúc bằng cách khuyến khích các Kitô hữu trẻ hãy coi các tác phẩm cổ điển như một ephódion (“của ăn đàng”) để hướng dẫn và đào tạo họ, rút ​​ra từ đó “lợi ích cho tâm hồn” (IV, 8-9). Và chính từ cuộc gặp gỡ này của biến cố Kitô giáo với nền văn hóa thời đó mà sự tái diễn giải độc đáo của việc loan báo Tin Mừng đã ra đời.

12. Nhờ sự phân định văn hóa theo Tin Mừng, có thể nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần trong thực tại đa dạng của con người, nghĩa là nắm bắt được hạt giống đã bị chôn vùi của sự hiện diện của Thánh Thần trong các biến cố, trong những tính nhạy cảm, trong những ước muốn, trong những căng thẳng sâu xa nơi những tâm hồn và bối cảnh xã hội, văn hóa và tinh thần. Chẳng hạn, chúng ta có thể nhận ra trong Sách Công vụ Tông đồ, lúc Thánh Phaolô ở Aréopage (x. Cv 17, 16-34), một cách tiếp cận thuộc loại này. Khi nói về Thiên Chúa, Thánh Phaolô khẳng định: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị đã nói: “Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người” (Cv 17,28). Có hai trích dẫn trong câu này: một trích dẫn gián tiếp ở phần đầu tiên trong đó nhà thơ Epiménide (thế kỷ thứ VI trước Công nguyên) được trích dẫn, và một trích dẫn trực tiếp, trong đó tác phẩm Phénomènes của nhà thơ Aratus of Silo (thế kỷ thứ III trước Công nguyên) được trích dẫn, ca ngợi các chòm sao và các dấu hiệu của thời tiết tốt và xấu. “Ở đây Thánh Phaolô bộc lộ mình là một “độc giả” của thơ ca, và tiết lộ cách tiếp cận văn bản văn chương của ngài, một cách chỉ có thể khiến chúng ta suy nghĩ về sự phân định văn hóa theo Tin Mừng. Ngài bị người Athen đối xử như một nhà tinh trùng học, nghĩa là một “con quạ, kẻ lắm chuyện, lang băm” nhưng, theo nghĩa đen, là một “kẻ thu hoạch hạt giống”. Điều chắc chắn là một sự xúc phạm này một cách nghịch lý lại trở thành một sự thật sâu xa. Thánh Phaolô thu thập những hạt giống của thơ ngoại giáo và, thoát khỏi một thái độ phẫn nộ sâu sắc trước đó (x. Cv 17, 16), ngài đi đến chỗ thừa nhận người Athen là những người “rất sùng đạo” và thấy trong những trang văn chương cổ điển này của họ một sự chuẩn bị cho Tin Mừng (preparatio evangelica) thực sự”. [6]

13. Thánh Phaolô đã làm gì? Ngài hiểu rằng văn chương “khám phá những vực thẳm ở nơi con người, trong khi Mặc Khải, rồi thần học, nắm lấy chúng để cho thấy Chúa Kitô đã vượt qua và soi sáng chúng như thế nào”. [7] Do đó, văn chương là một “con đường”, [8] dẫn đến những vực thẳm này, giúp người mục tử bước vào một cuộc đối thoại hữu hiệu với nền văn hóa của thời đại mình.

Không bao giờ có một Chúa Kitô không có thân xác

14. Trước khi đào sâu những lý do cụ thể tại sao phải khuyến khích việc quan tâm đến văn chương trong quá trình đào tạo các linh mục tương lai, cho phép tôi nhắc lại ở đây một suy tư về bối cảnh tôn giáo hiện tại: “Việc quay trở lại với sự linh thánh và việc tìm kiếm tâm linh vốn đặc trưng của thời đại chúng ta, là những hiện tượng mơ hồ. Nhưng, hơn cả chủ nghĩa vô thần, ngày nay chúng ta đang phải đối mặt với thách thức trả lời cách thích đáng cơn khát Thiên Chúa của nhiều người, để họ không tìm cách thỏa mãn nó bằng những đề nghị vong thân hoặc bằng một Chúa Giêsu Kitô không có thân xác”. [9] Do đó, nhiệm vụ cấp bách của việc loan báo Tin Mừng trong thời đại chúng ta đòi hỏi các tín hữu, đặc biệt là các linh mục, một sự dấn thân để mỗi người có thể gặp được một Chúa Giêsu Kitô nhập thể, làm người, làm nên lịch sử. Tất cả chúng ta phải đảm bảo để không bao giờ đánh mất “thân xác” của Chúa Giêsu Kitô: thân xác này được tạo nên bằng những đam mê, cảm xúc, tình cảm, những câu chuyện cụ thể, những bàn tay chạm đến và chữa lành, những cái nhìn giải thoát và khích lệ, bằng lòng hiếu khách, sự tha thứ, sự phẫn nộ, lòng can đảm, sự gan dạ: tắt một từ, bằng tình yêu.

15. Và chính ở cấp độ này mà việc chăm chỉ tiếp xúc với văn chương có thể làm cho các linh mục tương lai và tất cả các nhân viên mục vụ trở nên nhạy cảm hơn với nhân tính trọn vẹn của Chúa Giêsu, trong đó thần tính của Người được lan tỏa trọn vẹn, và loan báo Tin Mừng để mọi người, thực sự tất cả mọi người, có thể cảm nghiệm được điều Công đồng Vatican II nói thật đúng đắn biết bao: “Thực ra, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được soi sáng trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể”. [10] Đây không phải là vấn đề mầu nhiệm của một nhân loại trừu tượng, mà là mầu nhiệm của con người cụ thể này với tất cả những vết thương, ước muốn, ký ức và hy vọng của cuộc đời mình.

Một thiện ích lớn lao

16. Từ quan điểm thực dụng, nhiều nhà khoa học khẳng định rằng thói quen đọc sách mang lại nhiều hiệu quả tích cực trong cuộc sống của một người: nó giúp họ có được vốn từ vựng rộng hơn và kết quả là phát triển nhiều khía cạnh khác nhau của trí tuệ. Nó cũng kích thích trí tưởng tượng và tính sáng tạo. Đồng thời, nó cho phép họ học cách diễn đạt câu chuyện của mình một cách phong phú hơn. Nó cũng cải thiện khả năng tập trung của một người, giảm mức độ suy giảm nhận thức và làm dịu căng thẳng và lo lắng.

17. Tốt hơn nữa, nó chuẩn bị cho chúng ta hiểu biết và do đó đối mặt với những tình huống khác nhau có thể nảy sinh trong cuộc sống. Khi đọc sách, chúng ta đắm mình vào các nhân vật, những lo lắng, những bi kịch, những nguy hiểm, những nỗi sợ hãi của những người cuối cùng đã vượt qua những thách thức của cuộc sống, hoặc có thể, trong khi đọc, chúng ta đưa ra cho các nhân vật những lời khuyên sẽ giúp ích cho chúng ta sau này.

18. Một lần nữa, để khuyến khích việc đọc sách, tôi sẵn lòng trích dẫn một số bản văn của các tác giả rất nổi tiếng, những người dạy chúng ta rất nhiều điều chỉ trong vài lời:

Các tiểu thuyết giải phóng “trong chúng ta, trong một giờ, tất cả những hạnh phúc và bất hạnh có thể có, mà một số trong đó chúng ta phải mất nhiều năm mới biết được trong cuộc đời, và điều mãnh liệt nhất trong đó sẽ không bao giờ được tiết lộ cho chúng ta bởi vì sự chậm rãi mà chúng diễn ra sẽ làm mất đi nhận thức của chúng ta về chúng”. [11]

“Bằng cách đọc những tác phẩm văn chương vĩ đại, tôi trở thành hằng ngàn người và, đồng thời, tôi vẫn là chính mình. Giống như bầu trời đêm trong thơ ca Hy Lạp, tôi nhìn bằng vô số con mắt, nhưng tôi luôn là người nhìn thấy. Ở đây, cũng như trong tôn giáo, tình yêu, hành động luân lý và kiến ​​thức, tôi vượt qua chính mình, tuy nhiên, khi tôi vượt qua chính mình, tôi lại là chính mình hơn bao giờ hết”. [12]

19. Tuy nhiên, ý định của tôi không chỉ dừng lại ở mức độ hữu ích cá nhân này, mà còn suy nghĩ về những lý do mang tính quyết định nhất để đánh thức niềm yêu thích đọc sách.

Lắng nghe tiếng nói của ai đó

20. Khi nghĩ đến văn chương, tôi nhớ đến điều mà đại văn hào người Argentina Jorge Luis Borges [13] đã nói với các sinh viên của mình: điều quan trọng nhất là đọc sách, tiếp xúc trực tiếp với văn chương, hòa mình vào văn bản sống động trước mặt chúng ta, thay vì tập trung vào những ý kiến và ​​bình luận. Và Borges giải thích ý tưởng này cho các sinh viên của mình bằng cách nói với họ rằng lúc đầu họ có thể không hiểu nhiều những gì họ đọc; nhưng, dù sao, họ sẽ nghe thấy “tiếng nói của ai đó”. Đây là một định nghĩa về văn chương mà tôi rất thích: lắng nghe tiếng nói của ai đó. Và đừng quên rằng thật nguy hiểm biết bao khi không còn lắng nghe tiếng nói của người khác đang chất vấn chúng ta! Chúng ta ngay lập tức rơi vào tình trạng tự cô lập, rơi vào một thứ điếc “tinh thần”, vốn cũng ảnh hưởng tiêu cực đến mối quan hệ của chúng ta với chính mình và mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa, bất kể thần học hay tâm lý học nào mà chúng ta đã có thể nghiên cứu.

21. Bằng cách đi theo con đường khiến chúng ta nhạy cảm với mầu nhiệm của tha nhân, văn chương dạy chúng ta chạm đến trái tim của họ. Làm sao không nhắc lại ở đây những lời can đảm mà Thánh Phaolô VI đã nói với các nghệ sĩ và do đó cũng với các đại văn hào vào ngày 7 tháng 5 năm 1964? Ngài nói: “Chúng tôi cần các bạn. Thừa tác vụ của chúng tôi cần sự hợp tác của bạn. Bởi vì, như các bạn đã biết, thừa tác vụ của chúng tôi hệ tại việc rao giảng và làm cho thế giới tinh thần, thế giới vô hình, thế giới khôn tả của Thiên Chúa trở nên dễ tiếp cận và dễ hiểu, thậm chí cảm động. Và trong hoạt động biến thế giới vô hình thành những công thức dễ tiếp cận và dễ hiểu, các bạn là bậc thầy.” [14] Nhiệm vụ của các tín hữu, đặc biệt là các linh mục, chính là “chạm đến” tâm hồn con người đương thời để họ được đánh động và cởi mở trước lời loan báo về Chúa Giêsu, và trong sự dấn thân này, sự đóng góp mà văn chương và thơ ca có thể mang lại có giá trị vô giá.

22. T.S. Eliot, nhà thơ mà tinh thần Kitô giáo mang ơn những tác phẩm văn chương từng ghi dấu ấn trong thế giới đương đại, đã mô tả một cách đúng đắn cuộc khủng hoảng tôn giáo hiện đại là cuộc khủng hoảng về “sự bất lực về cảm xúc” lan rộng [15]. Dưới ánh sáng của việc đọc thực tại này, vấn đề đức tin ngày nay trước hết không phải là tin ít nhiều vào các mệnh đề giáo thuyết. Đúng hơn đó là vấn đề về sự bất lực của nhiều người trong việc cảm động trước Thiên Chúa, trước công trình tạo dựng của Ngài, trước những con người khác. Do đó, nhiệm vụ là chữa lành và làm phong phú sự nhạy cảm của chúng ta. Đó là lý do tại sao, khi trở về sau chuyến tông du đến Nhật Bản, khi được hỏi phương Tây phải học gì từ phương Đông, tôi đã trả lời: “Tôi nghĩ phương Tây thiếu một chút thơ ca”. [16]

Một loại phòng tập luyện phân định

23. Vậy linh mục được gì khi tiếp xúc với văn chương? Tại sao cần phải xem xét và khuyến khích việc đọc những cuốn tiểu thuyết lớn như một thành phần quan trọng của paideia (giáo dục) linh mục? Tại sao điều quan trọng là phải khám phá lại và thực hiện trong việc đào tạo các ứng viên linh mục trực giác, được nhà thần học Karl Rahner vạch ra, về mối quan hệ tinh thần sâu xa giữa linh mục và nhà thơ? [17]

24. Chúng ta hãy cố gắng trả lời những câu hỏi này bằng cách lắng nghe những suy nghĩ của nhà thần học người Đức. [18] Rahner viết: những lời của nhà thơ “đầy hoài niệm”, chúng là “những cánh cửa mở ra cho sự vô tận, những cánh cửa mở rộng cho sự bao la. Chúng gợi lên những điều khôn tả, chúng hướng tới những điều khôn tả.” Lời thơ này “hướng về cái vô tận, nhưng nó không thể ban cho chúng ta cái vô cùng này, cũng không thể mang hay giấu trong nó Đấng Vô Tận”. Đây là đặc điểm của Lời Chúa, và – Rahner nói tiếp – “lời thơ cầu khẩn Lời Chúa”. [19] Đối với các Kitô hữu, Ngôi Lời là Thiên Chúa, và mọi lời của con người đều mang dấu vết của một nỗi nhớ nhung nội tại về Thiên Chúa, hướng về Ngôi Lời này. Chúng ta có thể nói rằng lời thơ đích thực tham dự vào Lời Chúa một cách loại suy như Thư gửi tín hữu Do Thái trình bày nó một cách rõ ràng (x. Dt 4, 12-13).

25. Và chính như thế mà Karl Rahner có thể thiết lập một sự song song tuyệt đẹp giữa linh mục và nhà thơ: “Chỉ có lời nói mới có khả năng sâu sắc giải phóng những gì đang giam cầm tất cả những thực tại chưa được diễn tả: sự câm lặng khỏi xu hướng hướng về Thiên Chúa của chúng” . [20]

26. Tiếp đến, trong văn chương, chính các vấn đề về hình thức diễn đạt và ý nghĩa đang được đặt ra. Do đó, nó được coi là một loại phòng tập luyện phân định nhằm mài giũa những khả năng trí tuệ xem xét bên trong và bên ngoài của vị linh mục tương lai. Nơi mở ra con đường tiếp cận sự thật của chính mình này là nội tâm của người đọc tham gia trực tiếp vào quá trình đọc. Do đó, đây là việc triển khai kịch bản phân định tâm linh cá nhân, nơi tìm thấy những lo lắng và thậm chí cả những khủng hoảng. Thật vậy, có rất nhiều trang văn chương có thể đáp lại định nghĩa của thánh Inhaxiô về “sự phiền muộn”.

27. “Tôi gọi sự phiền muộn […] là đêm tối của tâm hồn, sự xáo trộn nội tâm, hướng đến những điều thấp hèn và trần thế, thiếu bình an do những kích động và cám dỗ khác nhau dẫn đến thiếu niềm tin, không hy vọng, không tình yêu, khi linh hồn nhận thấy mình hoàn toàn lười biếng, lãnh đạm, buồn chán và như thể bị tách khỏi Đấng Tạo hóa và Chúa của mình.” [21]

28. Cảm giác đau buồn hay chán nản khi đọc một số bản văn không nhất thiết là cảm giác xấu xa hoặc vô ích. Chính Thánh Inhaxiô Loyola đã lưu ý rằng nơi “những người chuyển từ xấu sang xấu hơn”, thần lành sẽ hành động bằng cách gây ra lo lắng, kích động và bất mãn. [22] Đây là sự áp dụng theo nghĩa đen của quy luật đầu tiên của thánh Inhaxiô trong việc phân định thần khí, dành riêng cho những người “đi từ tội trọng này đến tội trọng khác” và quy luật này muốn rằng, nơi những người này, thần lành “thúc giục họ và cắn rứt lương tâm họ bằng ý thức luân lý – lương tri – của lý trí” [23] để dẫn họ tới cái thiện và cái đẹp.

29. Như thế, chúng ta hiểu rằng người đọc không chỉ là người nhận được một thông điệp mang tính xây dựng, nhưng họ là người được thúc giục tích cực mạo hiểm vào một địa hình bất ổn, nơi ranh giới giữa sự cứu rỗi và sự diệt vong không được xác định và phân cách một cách tiên thiên. Do đó, hành vi đọc giống như một hành vi “phân định” trong đó người đọc được ngụ ý một cách cá nhân với tư cách là một “chủ thể” của việc đọc và đồng thời là “đối tượng” của điều mình đọc. Khi đọc một cuốn tiểu thuyết hoặc một tác phẩm thơ, người đọc sống kinh nghiệm “được đọc” qua những từ mình đọc. [24] Do đó, người đọc giống như một cầu thủ trên sân: họ chơi trò chơi, nhưng đồng thời trò chơi được diễn ra qua họ, theo nghĩa là họ hoàn toàn bao hàm vào những gì mình làm. [25]

Sự chú ý và tiêu hóa

30. Về nội dung, phải thừa nhận rằng văn chương giống như “một chiếc kính thiên văn” – theo hình ảnh nổi tiếng do Proust sáng chế [26] – tập trung vào những hữu thể và sự vật, cần thiết để làm nổi bật “khoảng cách lớn lao” mà cuộc sống đời thường tạo ra giữa nhận thức của chúng ta và tổng thể kinh nghiệm của con người. “Văn chương giống như một phòng thí nghiệm nhiếp ảnh, trong đó những hình ảnh về cuộc sống có thể được xử lý để bộc lộ những đường nét và sắc thái của chúng. Vì vậy, đây chính là điều mà văn chương “dùng” đến: để “phát triển” những hình ảnh cuộc sống”, [27] để chất vấn chúng ta về ý nghĩa của nó. Tóm lại, nó dùng cho việc trải nghiệm cuộc sống một cách hiệu quả.

31. Thật ra, cái nhìn thông thường của chúng ta về thế giới dường như bị “giảm thiểu” và bị giới hạn do áp lực mà các mục tiêu hoạt động và tức thời của hành động của chúng ta tác động lên chúng ta. Ngay cả việc phục vụ – thờ phường, mục vụ, bác ái – cũng có thể trở thành một mệnh lệnh hướng sức mạnh và sự chú ý của chúng ta chỉ vào những mục tiêu cần đạt được. Nhưng, như Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta trong dụ ngôn người gieo giống, hạt giống cần phải rơi xuống đất sâu để trưởng thành và sinh hoa trái theo thời gian mà không bị sự hời hợt hay gai góc làm chết nghẹt (Mt 13, 18-23). Nếu không, mối nguy cơ là rơi vào một hiệu quả tầm thường hóa sự phân định, làm nghèo đi tính nhạy cảm và giảm thiểu sự phức tạp. Do đó, điều cần thiết và cấp bách là phải cân bằng sự tăng tốc và sự đơn giản hóa không thể tránh khỏi này trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta bằng cách học cách giữ khoảng cách đối với cái tức thời, học sống chậm lại, chiêm ngưỡng và lắng nghe. Điều này có thể xảy ra khi một người tự do dừng lại để đọc sách.

32. Cần phải khám phá lại những cách thức hành xử trước những thực tại chào đón, phi chiến lược, không nhắm trực tiếp vào một kết quả, nơi có thể để cho sự lớn lao vô tận của hữu thể xuất hiện. Khoảng cách, sự chậm rãi, sự tự do là những đặc điểm của cách tiếp cận hiện thực, tìm thấy chính trong văn chương một hình thức diễn đạt, chắc chắn không phải là độc quyền nhưng là đặc quyền. Khi đó, văn chương trở thành một nơi tập luyện, nơi chúng ta rèn luyện cái nhìn để tìm kiếm và khám phá sự thật về con người và các hoàn cảnh như một mầu nhiệm, như được chứa đựng quá nhiều ý nghĩa mà chỉ có thể thể hiện một phần trong các phạm trù và sơ đồ giải thích, trong sự năng động tuyến tính từ nguyên nhân đến kết quả, từ phương tiện đến mục đích.

33. Một hình ảnh đẹp khác để nói lên vai trò của văn chương đến từ sinh lý của cơ thể con người và đặc biệt là hoạt động tiêu hóa. Ở đây, mô hình của nó là sự nhai lại của con bò, được khẳng định bởi đan sĩ Guillaume de Saint-Thierry vào thế kỷ XI và tu sĩ Dòng Tên Jean-Joseph Surin vào thế kỷ XVII. Jean-Joseph Surin nói về “dạ dày của tâm hồn” và tu sĩ Dòng Tên Michel De Certeau đã nói về một “sinh lý học thực sự của việc đọc tiêu hóa”. [28] Văn chương giúp chúng ta nói lên sự hiện diện của chúng ta với thế giới, “tiêu hóa” nó và đồng hóa nó bằng cách nắm bắt những gì vượt ra ngoài bề mặt của kinh nghiệm; do đó văn chương dùng để giải thích cuộc sống bằng cách phân định những ý nghĩa và căng thẳng cơ bản của nó. [29]

Nhìn qua ánh mắt của người khác

34. Về hình thức diễn ngôn, đây là điều xảy ra: đọc một văn bản văn chương đặt chúng ta vào vị trí “nhìn qua ánh mắt của người khác” [30] bằng cách có được một viễn cảnh rộng mở giúp mở rộng nhân tính của chúng ta. Nó kích hoạt trong chúng ta sức mạnh đồng cảm của trí tưởng tượng, vốn là phương tiện cơ bản cho khả năng đồng hóa với quan điểm, điều kiện, cảm xúc của người khác, nếu không có nó thì sẽ không có tình liên đới, chia sẻ, lòng trắc ẩn, lòng thương xót. Khi đọc, chúng ta khám phá ra rằng những gì chúng ta cảm nhận không chỉ là của chúng ta mà còn là của cả thế giới, đến nỗi ngay cả người bị bỏ rơi nhất cũng không cảm thấy cô đơn.

35. Sự đa dạng kỳ diệu của con người và tính đa nguyên lịch đại và đồng đại của các nền văn hóa và kiến ​​thức được định hình trong văn chương bằng một ngôn ngữ có khả năng tôn trọng và diễn đạt sự đa dạng của nó. Đồng thời, chúng được thể hiện thành một ngữ pháp biểu tượng về ý nghĩa khiến chúng ta có thể hiểu được chúng, không xa lạ, nhưng được chia sẻ. Tính độc đáo của lời văn chương nằm ở chỗ nó diễn tả và truyền tải sự phong phú của kinh nghiệm không phải bằng cách khách quan hóa nó như trong những các mô hình mô tả của khoa học hay những phán đoán của phê bình văn học, nhưng bằng cách diễn đạt và giải thích ý nghĩa sâu xa hơn của nó.

36. Khi chúng ta đọc một câu chuyện, nhờ góc nhìn của tác giả, mỗi người tưởng tượng theo cách riêng của mình tiếng khóc của cô gái bị bỏ rơi, bà cụ đắp chăn cho đứa cháu đang ngủ, nỗi đam mê của người tiểu thương cố gắng xoay xở bất chấp những khó khăn, sự tủi nhục của người cảm thấy mình bị mọi người chỉ trích, cậu bé ẩn náu trong những ước mơ như là phương tiện duy nhất để thoát khỏi đau khổ của một cuộc đời khốn khổ và bạo lực. Khi chúng ta cảm nhận được dấu vết của thế giới nội tâm của mình giữa những câu chuyện này, chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với kinh nghiệm của người khác, chúng ta ra khỏi chính mình để bước vào sự sâu kín của họ, chúng ta có thể hiểu rõ hơn một chút những nỗ lực và mong muốn của họ, chúng ta nhìn thực tại qua ánh mắt của họ và, cuối cùng, chúng ta trở thành những người bạn đường. Như thế, chúng ta đắm mình trong cuộc sống cụ thể và nội tâm của người bán trái cây, của cô gái điếm, của đứa trẻ lớn lên không có cha mẹ, của vợ người thợ nề, của cụ bà vẫn tin rằng mình sẽ tìm được hoàng tử của mình. Và chúng ta có thể làm điều này với sự đồng cảm và đôi khi bằng sự bao dung và thấu hiểu.

37. Jean Cocteau đã viết cho Jacques Maritain: “Văn chương là không thể, cần phải thoát khỏi nó, và cố gắng trốn thoát bằng văn chương cũng vô ích, bởi vì chỉ có tình yêu và niềm tin mới cho phép chúng ta thoát khỏi chính mình-cũng vậy”. [31] Nhưng liệu chúng ta có thực sự thoát ra khỏi chính mình nếu nỗi đau khổ và niềm vui của người khác không thiêu đốt trong lòng chúng ta? Tôi muốn nhắc nhớ rằng với tư cách là một Kitô hữu, không có gì của con người mà thờ ơ với tôi.

38. Vả lại, văn chương không duy tương đối vì nó không tước bỏ những tiêu chuẩn giá trị của chúng ta. Sự trình bày mang tính biểu tượng của sự thiện và sự dữ, sự thật và sự giả dối, như những chiều kích mà trong văn học mang hình thức những hiện hữu cá nhân và các sự kiện lịch sử tập thể, không vô hiệu hóa sự phán xét luân lý, nhưng ngăn nó khỏi trở nên mù quáng hoặc khỏi lên án một cách hời hợt. Chúa Giêsu hỏi chúng ta: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới ?” (Mt 7, 3).

39. Và trước sự bạo lực, yếu đuối hay mong manh của người khác, chúng ta có cơ hội suy nghĩ tốt hơn về những kinh nghiệm của chính mình. Khi mở ra cho người đọc một tầm nhìn rộng lớn về sự phong phú và khốn khổ của kinh nghiệm con người, văn chương giáo cái nhìn của họ về sự chậm hiểu, về sự khiêm tốn trong việc không đơn giản hóa, về sự khoan dung để không có tham vọng làm chủ thực tại và thân phận con người thông qua phán xét. Sự phán xét chắc chắn là cần thiết, nhưng không bao giờ được quên phạm vi giới hạn của nó: quả thế, sự phán xét không bao giờ được thể hiện bằng một bản án tử hình, loại bỏ con người hoặc đàn áp nhân loại vì lợi ích của việc tuyệt đối hóa luật pháp một cách vô hồn.

40. Cái nhìn của văn chương huấn luyện người đọc ra khỏi sự quy ngã, ý thức về giới hạn, từ bỏ sự thống trị của nhận thức và phê phán đối với kinh nghiệm, dạy cho họ về sự nghèo khó vốn là nguồn gốc của sự phong phú phi thường. Khi thừa nhận tính vô ích và có lẽ thậm chí là tính không thể giảm thiểu mầu nhiệm của thế giới và con người thành một cực đối kháng tương phản thật/giả, hoặc đúng/sai, người đọc chấp nhận bổn phận phán xét không phải như một công cụ thống trị, nhưng như một sự thúc đẩy hướng tới việc không ngừng lắng nghe và sẵn sàng tham gia vào sự phong phú phi thường này của lịch sử nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng cũng ban chính mình như Ân Sủng: nghĩa là như một sự kiện không thể đoán trước và không thể hiểu được, vốn không phụ thuộc vào hành động của con người, nhưng xác định lại con người như là niềm hy vọng cứu độ.

Sức mạnh tinh thần của văn chương

41. Trong những suy tư ngắn gọn này, tôi hy vọng đã làm nổi bật vai trò của văn chương trong việc có thể giáo dục trái tim và tâm trí của người mục tử hoặc mục tử tương lai, theo nghĩa là sự thực hành của lý trí của họ một cách tự do và khiêm tốn, sự công nhận hiệu quả về tính đa nguyên của các ngôn ngữ con người, sự mở rộng tính nhạy cảm nhân bản và cuối cùng là sự cởi mở tinh thần rộng rãi để lắng nghe Tiếng Nói qua nhiều tiếng nói.

42. Theo nghĩa này, văn chương giúp người đọc phá vỡ các thần tượng của những ngôn ngữ mang tính quy ngã, tự mãn một cách sai lầm và mang tính quy ước tĩnh tại, vốn đôi khi có nguy cơ làm ô nhiễm ngay cả diễn ngôn của Giáo hội chúng ta bằng cách giam cầm sự tự do của Lời Chúa. Lời văn chương là lời làm cho ngôn ngữ chuyển động, giải phóng và thanh lọc ngôn ngữ: cuối cùng nó mở ra cho ngôn ngữ những khả năng diễn đạt và khám phá khác, nó làm cho ngôn ngữ đón nhận Lời Chúa vốn đã hiện diện trong ngôn ngữ con người, chứ không phải khi ngôn ngữ được hiểu là kiến ​​thức đã có sẵn trọn vẹn, dứt khoát và đầy đủ, nhưng khi nó trở thành sự canh thức lắng nghe và chờ đợi Đấng đến đổi mới mọi sự (x. Kh 21, 5).

43. Sức mạnh tinh thần của văn chương cuối cùng nhắc lại nhiệm vụ hàng đầu mà Thiên Chúa giao phó cho con người: đó là “đặt tên” cho các sinh vật và sự vật (x. Stk 2,19-20). Sứ mạng bảo vệ công trình tạo dựng, được Thiên Chúa giao phó cho Ađam, trước hết ngang qua việc nhận ra thực tại của chính mình và ý nghĩa sự tồn tại của những hữu thể khác. Linh mục cũng được đầu tư vào nhiệm vụ ban đầu là “đặt tên” này, mang lại ý nghĩa, trở thành một công cụ hiệp thông giữa công trình tạo dựng và Ngôi Lời nhập thể với sức mạnh soi sáng mọi khía cạnh của thân phận con người.

44. Do đó, mối liên hệ mật thiết giữa linh mục và thi sĩ được thể hiện trong sự kết hợp bí tích huyền nhiệm và bất khả phân ly giữa Lời Chúa và lời nhân loại, tạo nên một thừa tác vụ vốn trở thành sự phục vụ đầy lắng nghe và cảm thông, một đặc sủng vốn trở thành trách nhiệm, một tầm nhìn về sự thật và sự thiện vốn biểu lộ như vẻ đẹp. Chúng ta chỉ có thể nghe thấy những lời mà nhà thơ Paul Celan để lại cho chúng ta: “Người thực sự học cách nhìn sẽ đến gần những gì vô hình”. [32]

Ban hành tại Rôma, gần Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 17 tháng 7 năm 2024, vào năm thứ mười hai triều đại giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

———————————–

Tý Linh chuyển ngữ từ bản tiếng Pháp (tham khảo bản tiếng Anh)

(nguồn : vatican.va)

——————————————-

[1] R. Latourelle, Letteratura, in R. Latourelle – R. Fisichella, Dizionario di Teologia Fondamentale, Assisi (PG) 1990, p. 631.

[2] Cf. A. Spadaro, «J. M. Bergoglio, il “maestrillo” creativo. Intervista all’alunno Jorge Milia», in La Civiltà Cattolica 2014 I, pp. 523-534.

[3] Công đồng Vatican II, Hiến chế  Gaudium et spes, số 62.

[4] K. Rahner, «Il futuro del libro religioso», in Nuovi saggi II, Roma 1968, p. 647.

[5] xem Tông huấn Evangelii Gaudium, số 6.

[6] A. Spadaro, Svolta di respiro. Spiritualità della vita contemporanea, Milano, Vita e Pensiero, p. 101.

[7] R. Latourelle, «Letteratura», p. 633.

[8] Thánh Gioan-Phaolô II, Thư gởi các nghệ sĩ, 4/4/1999, số 6.

[9] Tông huấn Evangelii Gaudium, số 89.

[10] Hiến chế Gaudium et spes, số 22 § 1.

[11] M. Proust, À la recherche du temps perdu – Du côté de chez Swann, B. Grasset, Paris 1914, pp. 104-105.

[12] C.S. Lewis, Lettori e letture. Un esperimento di critica, Milano 1997, 165 .

[13] Cf. Borges, Oral, Buenos Aires 1979.

[14] Homélie, « Messe des Artistes », 7/5/1964.

[15] The Idea of a Christian Society, London 1946, p. 30.

[16]  Cuộc họp báo của Đức Thánh Cha trong chuyến bay trở về từ chuyến tông du đến Thái Lan và Nhật Bản, ngày 26 tháng 11 năm 2019.

[17] Cf. A. Spadaro, La grazia della parola. Karl Rahner e la poesia, Milano, Jaca Book, 2006.

[18] Cf. K. Rahner, «Sacerdote e poeta», in La Fede in mezzo al mondo, Alba 1963, pp. 131-173.

[19] Ibid., p. 171 s.

[20] Ibid., p. 146.

[21] Thánh Inhaxiô Loyola, Linh Thao, số 317.

[22] Cf. ibid., số 335.

[23] ibid., số 314.

[24] Cf. K. Rahner, «Sacerdote e poeta» in La fede in mezzo al mondo, Alba 1963, p. 141.

[25] Cf. A. Spadaro, La pagina che illumina. Scrittura creativa come esercizio spirituale, Milano, Ares, 2023, pp. 46-47.

[26] Cf. M. Proust, À la recherche du temps perdu. Le temps retrouvé, Paris 1954, Vol. III, p. 1041.

[27] A. Spadaro, La pagina che illumina, op. cit., p. 14

[28] M. de Certeau, Il parlare angelico. Figure per una poetica della lingua (Secoli XVI e XVII), Firenze 1989, p. 139.

[29] Cf. A. Spadaro, La pagina che illumina, op. cit., p. 16.

[30] C.S. Lewis, Lettori e letture. Un esperimento di critica, Milano 1997, p. 165.

[31] J. Cocteau – J. Maritain, dialogue sur la foi, Firenze, Passigli 1988, p. 56. Cf. A. Spadaro, La pagina che illumina, op. cit., p. 11-12.

[32] Microliti, Milano 2020, p. 101.