Vào đầu Năm Mới, thời gian ân sủng mà Chúa ban cho mỗi người chúng ta, tôi muốn ngỏ lời với Dân Chúa, các quốc gia, quý nguyên thủ quốc gia và chính phủ, quý Đại diện các tôn giáo và xã hội dân sự, cũng như tất cả mọi người nam nữ của thời đại chúng ta, để gửi những lời chúc bình an tốt đẹp nhất.
Kinh Thánh chứng thực rằng Thiên Chúa đã ban Thần Khí của Ngài cho con người để họ trở nên “khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc” (Xh 35, 31). Trí tuệ của con người là sự diễn tả phẩm giá mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho chúng ta, Đấng đã tạo dựng nên chúng ta theo hình ảnh và giống Ngài (x. St 1,26), đồng thời cho chúng ta có khả năng đáp lại tình yêu của Ngài một cách có ý thức và tự do. Một cách cụ thể, khoa học và công nghệ thể hiện phẩm chất mang tính tương quan cơ bản này của trí tuệ con người; cả hai đều là sản phẩm phi thường của tiềm năng sáng tạo.
Trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, Công đồng Vatican II đã nhắc lại chân lý này, khi tuyên bố rằng “Bằng lao động và tài trí, con người đã luôn cố gắng phát triển thêm mãi cuộc sống của mình”[1]. Khi con người, “với sự trợ giúp của công nghệ”, nỗ lực biến “trái đất thành nơi ở xứng đáng cho toàn thể gia đình nhân loại”[2], họ thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa và hợp tác với ý muốn của Ngài để hoàn thành công trình sáng tạo và mang lại hoà bình giữa các dân tộc. Cũng thế, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, trong chừng mực góp phần vào một trật tự xã hội loài người tốt đẹp hơn cũng như gia tăng sự tự do và hiệp thông huynh đệ, do đó cũng dẫn đến sự hoàn thiện con người và biến đổi thế giới.
Chúng ta vui mừng và biết ơn vì những thành tựu phi thường của khoa học và công nghệ, nhờ đó có thể khắc phục được vô số bệnh tật trước đây từng ảnh hưởng đến đời sống và gây ra nhiều đau khổ cho con người. Đồng thời, những tiến bộ khoa học – kỹ thuật, bằng việc giúp con người có thể thực hiện quyền kiểm soát chưa từng có đối với thực tại, đang đặt vào tay con người rất nhiều lựa chọn, bao gồm một số lựa chọn có nguy cơ đe dọa sự sống còn của con người và là mối nguy hiểm cho ngôi nhà chung[3].
Do đó, những tiến bộ đáng chú ý của những công nghệ thông tin mới, đặc biệt là trong lãnh vực kỹ thuật số, mang lại những cơ hội thú vị cũng như những rủi ro nghiêm trọng, với những tác động hệ trọng đến việc theo đuổi công lý và hòa hợp giữa các dân tộc. Vì vậy, một số câu hỏi khẩn cấp cần được đặt ra. Hậu quả tầm trung và dài hạn của những công nghệ kỹ thuật số mới sẽ là gì? Và chúng sẽ có tác động gì đến cuộc sống cá nhân và xã hội, đến sự ổn định và hòa bình quốc tế?
Sự tiến bộ của công nghệ thông tin và sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số trong những thập niên gần đây đã bắt đầu tạo ra những biến đổi sâu sắc trong xã hội toàn cầu và sự năng động của nó. Các phương tiện kỹ thuật số mới hiện đang thay đổi bộ mặt của truyền thông, quản trị công cộng, giáo dục, tiêu dùng, tương tác cá nhân và vô số khía cạnh khác trong cuộc sống hàng ngày.
Hơn nữa, từ các dấu vết kỹ thuật số còn sót lại trên Internet, các công nghệ sử dụng số lượng lớn thuật toán có thể trích xuất dữ liệu cho phép chúng kiểm soát các thói quen tinh thần và tương quan của con người vì mục đích thương mại hoặc chính trị mà chúng ta thường không hay biết, do đó hạn chế việc chúng ta thực hiện quyền tự do lựa chọn một cách có ý thức. Trong một không gian như Web, có đặc điểm là quá tải thông tin, chúng có thể xếp đặt luồng dữ liệu theo các tiêu chí của sự lựa chọn mà không phải lúc nào người dùng cũng nhận ra được.
Chúng ta cần nhớ rằng nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ không xa rời thực tế hay “trung lập”[4], mà chịu ảnh hưởng của văn hóa. Là những hoạt động hoàn toàn của con người, những hướng đi mà chúng thực hiện phản ánh những lựa chọn được điều chỉnh bởi các giá trị cá nhân, xã hội và văn hóa của từng thời đại. Điều tương tự cũng có thể nói về những kết quả mà chúng đạt được: chính xác là kết quả của những cách tiếp cận cụ thể của con người đối với thế giới xung quanh, luôn có chiều kích đạo đức, liên kết chặt chẽ với các quyết định của những người lập kế hoạch thử nghiệm và định hướng quá trình sản xuất tới các mục tiêu cụ thể.
Điều này cũng áp dụng cho các dạng trí tuệ nhân tạo. Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về nó trong thế giới khoa học và công nghệ. Bản thân thuật ngữ này, hiện đã được sử dụng trong cách nói hàng ngày, bao gồm nhiều ngành khoa học, lý thuyết và kỹ thuật nhằm đảm bảo rằng máy móc tái tạo hoặc bắt chước khả năng nhận thức của con người trong hoạt động của chúng. “Các dạng trí tuệ nhân tạo”, nói ở hình thức số nhiều, có thể giúp chúng ta nhấn mạnh hơn về khoảng cách không thể vượt qua giữa các hệ thống này với con người, cho dù chúng đáng ngạc nhiên và mạnh mẽ đến đâu: xét cho cùng, chúng chỉ đơn thuần là sự “chắp vá”, theo nghĩa là chúng chỉ có thể bắt chước hoặc tái tạo một số chức năng nhất định của trí tuệ con người. Việc dùng ở hình thức số nhiều cũng cho thấy thực tế là các thiết bị này rất khác nhau, và chúng phải luôn được coi là “các hệ thống kỹ thuật xã hội” (“socio-technical systems”). Thật vậy, tác động của bất kỳ thiết bị trí tuệ nhân tạo nào – bất kể công nghệ cơ bản của nó là gì – không chỉ phụ thuộc vào thiết kế kỹ thuật của nó mà còn phụ thuộc vào mục tiêu và lợi ích của những người sở hữu chúng và những người phát triển chúng, cũng như các tình huống mà chúng được sử dụng.
Vì thế, trí tuệ nhân tạo phải được hiểu như một thiên hà gồm những thực tại khác nhau. Chúng ta không thể tiên nghiệm cho rằng sự phát triển của nó sẽ góp phần mang lại lợi ích cho tương lai của nhân loại và cho hòa bình giữa các dân tộc. Kết quả tích cực này sẽ chỉ đạt được nếu chúng ta chứng tỏ mình có khả năng hành động có trách nhiệm và tôn trọng các giá trị cơ bản của con người như “hòa nhập, minh bạch, an ninh, công bằng, bảo mật, và đáng tin cậy”[5].
Cũng chưa đủ nếu chỉ giả định một cam kết từ phía những người thiết kế các thuật toán và công nghệ kỹ thuật số để hành động một cách có đạo đức và trách nhiệm. Cần tăng cường, hoặc nếu cần thiết, thành lập các cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra các vấn đề đạo đức mới nảy sinh trong lĩnh vực này và bảo vệ quyền của những người sử dụng hoặc bị ảnh hưởng bởi các dạng trí tuệ nhân tạo[6].
Do đó, sự phát triển rộng lớn của công nghệ phải đi kèm với việc đào tạo thích hợp về tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển của nó trong tương lai. Sự tự do và chung sống hòa bình bị đe dọa khi con người chiều theo cám dỗ ích kỷ, tư lợi, ham muốn lợi nhuận và khát vọng quyền lực. Vì thế, chúng ta có nhiệm vụ mở rộng tầm nhìn và hướng nghiên cứu khoa học – kỹ thuật tới việc theo đuổi hòa bình và công ích, nhằm phục vụ sự phát triển toàn diện của các cá nhân và cộng đồng[7].
Phẩm giá nội tại của mỗi người và tình huynh đệ gắn kết chúng ta với tư cách là thành viên của một gia đình nhân loại phải là nền tảng cho sự phát triển của các công nghệ mới và đóng vai trò là tiêu chí không thể chối cãi để đánh giá chúng trước khi sử dụng, nhờ đó tiến bộ kỹ thuật số có thể được thực hiện với sự tôn trọng thích đáng đối với công lý và góp phần vào sự nghiệp hòa bình. Những phát triển công nghệ không dẫn đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống của toàn nhân loại, mà trái lại, làm trầm trọng thêm những bất bình đẳng và xung đột, không bao giờ có thể được coi là tiến bộ thực sự[8].
Trí tuệ nhân tạo sẽ ngày càng trở nên quan trọng. Những thách thức mà nó đặt ra không chỉ là kỹ thuật mà còn là nhân chủng học, giáo dục, xã hội, và chính trị. Ví dụ, nó hứa hẹn đỡ tốn công sức, sản xuất hiệu quả hơn, vận chuyển dễ dàng hơn, và thị trường năng động hơn, cũng như một cuộc cách mạng trong quy trình thu thập, tổ chức, và xác minh dữ liệu. Chúng ta cần nhận thức được những biến đổi nhanh chóng hiện đang diễn ra và quản lý chúng sao cho các quyền cơ bản của con người được bảo vệ, đồng thời tôn trọng các thể chế và luật pháp thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện. Trí tuệ nhân tạo phải phục vụ tiềm năng tốt nhất và những khát vọng cao nhất của con người chứ không phải để con người cạnh tranh với chúng.
Dưới nhiều hình thức, trí tuệ nhân tạo dựa trên các kỹ thuật máy học (machine learning techniques), mặc dù vẫn đang ở giai đoạn ban đầu, nhưng đã tạo ra những thay đổi đáng kể đối với cơ cấu xã hội, gây ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa, hành vi xã hội, và xây dựng hòa bình.
Những sự phát triển như máy học hoặc học sâu (deep learning) đặt ra những vấn nạn vượt ra ngoài lãnh vực công nghệ và kỹ thuật, và liên quan đến sự hiểu biết gắn liền với ý nghĩa của cuộc sống con người, việc xây dựng kiến thức, và khả năng tiếp cận chân lý của trí óc.
Ví dụ, khả năng của một số thiết bị tạo ra các văn bản mạch lạc về mặt cú pháp và ngữ nghĩa không đảm bảo cho độ đáng tin của chúng. Chúng bị cho là “ảo giác”, tức là tạo ra những tuyên bố thoạt nhìn có vẻ hợp lý nhưng trên thực tế lại vô căn cứ hoặc bộc lộ những thành kiến. Điều này đặt ra một vấn đề nghiêm trọng khi trí tuệ nhân tạo được sử dụng trong các chiến dịch tung thông tin sai lệch, lan truyền tin giả dẫn đến sự mất lòng tin ngày càng tăng đối với giới truyền thông. Quyền bảo mật, sở hữu dữ liệu, và sở hữu trí tuệ là những lãnh vực khác mà các công nghệ này gây ra những rủi ro nghiêm trọng. Chúng ta có thể bổ sung thêm những hậu quả tiêu cực khác của việc lạm dụng các công nghệ này, chẳng hạn như phân biệt đối xử, can thiệp vào tiến trình bầu cử, nắm giữ một xã hội giám sát và kiểm soát con người, loại trừ kỹ thuật số, và tăng cường chủ nghĩa cá nhân ngày càng mất kết nối với xã hội. Tất cả những yếu tố này có nguy cơ kích động xung đột và cản trở hòa bình.
Thế giới của chúng ta quá rộng lớn, đa dạng và phức tạp để có thể nhận biết và phân loại đầy đủ. Tâm trí con người sẽ chẳng bao giờ cạn kiệt sự phong phú của nó, ngay cả khi có sự trợ giúp của những thuật toán tiên tiến nhất. Thật ra, các thuật toán như vậy không đưa ra những dự đoán chắc chắn về tương lai mà chỉ mang tính ước lệ thống kê gần đúng. Không phải mọi thứ đều có thể đoán trước được, không phải mọi thứ đều có thể tính toán được; suy cho cùng, thì “thực tại vượt trội hơn ý tưởng”[9]. Cho dù khả năng tính toán của chúng ta có phi thường đến đâu đi nữa, thì vẫn luôn có một dư lượng không thể tiếp cận được và vượt ra ngoài mọi nỗ lực đo lường.
Hơn nữa, lượng dữ liệu khổng lồ được trí tuệ nhân tạo phân tích tự nó không đảm bảo tính khách quan. Khi các thuật toán ngoại suy thông tin, chúng luôn có nguy cơ bóp méo thông tin, tái tạo những bất công và thành kiến trong môi trường mà chúng xuất phát. Chúng càng trở nên nhanh hơn và phức tạp hơn thì chúng ta lại càng khó hiểu tại sao chúng tạo ra một kết quả nhất định nào đó.
Những cỗ máy “thông minh” có thể thực hiện các nhiệm vụ được giao với hiệu suất ngày càng cao, nhưng mục đích và ý nghĩa hoạt động của chúng sẽ tiếp tục được xác định hoặc kích hoạt bởi con người, vốn sở hữu vũ trụ giá trị của riêng mình. Có nguy cơ là các tiêu chí đằng sau một số quyết định nhất định sẽ trở nên kém minh bạch hơn, trách nhiệm ra quyết định bị che giấu và các nhà sản xuất có thể trốn tránh nghĩa vụ hành động vì lợi ích của cộng đồng. Ở một khía cạnh nào đó, điều này được hệ thống kỹ trị ưa chuộng, vốn là hệ thống liên minh nền kinh tế với công nghệ và ủng hộ tiêu chí hiệu quả, có xu hướng bỏ qua mọi thứ không liên quan đến lợi ích trước mắt của nó[10].
Điều này khiến chúng ta suy tư về một khía cạnh thường bị bỏ qua trong não trạng kỹ trị và hiệu quả hiện nay, nhưng lại có tính quyết định đối với sự phát triển cá nhân và xã hội đó là: “cảm thức về giới hạn”. Theo định nghĩa, con người là phàm nhân; nghĩ đến việc vượt qua mọi giới hạn nhờ công nghệ, trong nỗi ám ảnh muốn kiểm soát mọi thứ, chúng ta có nguy cơ đánh mất quyền kiểm soát bản thân; trong việc tìm kiếm sự tự do tuyệt đối, chúng ta có nguy cơ rơi vào vòng xoáy của “chế độ độc tài công nghệ”. Việc nhận biết và chấp nhận những giới hạn của mình như là thụ tạo là điều kiện không thể thiếu để con người đạt được, hay nói đúng hơn, là đón nhận sự viên mãn như một hồng ân. Mặt khác, trong bối cảnh ý thức hệ của một mô hình kỹ trị được gợi hứng từ giả định về khả năng tự cung tự cấp của Promethean, sự bất bình đẳng có thể gia tăng vượt mức bình thường, và kiến thức cũng như của cải tích lũy trong tay một số ít người, gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho các xã hội dân chủ và sự chung sống hòa bình[11].
Trong tương lai, độ đáng tin của người nộp đơn xin vay vốn, sự phù hợp của một cá nhân đối với công việc, khả năng tái phạm của người bị kết án, quyền được tị nạn chính trị hoặc trợ giúp xã hội có thể được xác định bằng hệ thống trí tuệ nhân tạo. Việc thiếu các cấp độ hòa giải đa dạng mà các hệ thống này đưa ra đặc biệt dễ dẫn đến các hình thức định kiến và phân biệt đối xử: Những sai sót mang tính hệ thống có thể dễ dàng nhân lên, không chỉ tạo ra những bất công trong những trường hợp cá nhân mà còn, do hiệu ứng domino, tạo ra những hình thức bất bình đẳng xã hội thực sự.
Đôi khi, các dạng trí tuệ nhân tạo dường như có khả năng ảnh hưởng đến quyết định của cá nhân thông qua các lựa chọn được xác định trước liên quan đến sự kích thích và can ngăn, hoặc thông qua hệ thống điều chỉnh các lựa chọn cá nhân dựa trên việc tổ chức thông tin. Những hình thức thao túng hoặc kiểm soát xã hội này đòi hỏi sự chú ý và giám sát cẩn thận, đồng thời hàm chứa trách nhiệm pháp lý rõ ràng về phía người sản xuất, người sử dụng, và cơ quan chính phủ.
Sự phụ thuộc vào các quy trình tự động phân loại các cá nhân, chẳng hạn như thông qua việc sử dụng rộng rãi sự giám sát hoặc áp dụng các hệ thống tín dụng xã hội, cũng có thể có tác động sâu sắc đến cơ cấu dân sự, tạo ra sự phân loại không phù hợp giữa các công dân. Những quy trình phân loại nhân tạo này thậm chí có thể dẫn đến xung đột quyền lực, không chỉ liên quan đến người dùng ảo mà còn liên quan đến người thật. Sự tôn trọng cơ bản đối với phẩm giá con người đòi hỏi chúng ta phải từ chối cho phép xác định tính duy nhất của con người bằng một bộ dữ liệu. Các thuật toán không được phép xác định cách chúng ta hiểu về nhân quyền, gạt bỏ các giá trị thiết yếu của con người như lòng trắc ẩn, lòng thương xót và sự tha thứ hoặc loại bỏ khả năng một cá nhân thay đổi và bỏ lại quá khứ của mình.
Trong bối cảnh này, chúng ta không thể không xem xét tác động của các công nghệ mới tại nơi làm việc. Những công việc từng là lãnh vực độc quyền của lao động con người đang nhanh chóng bị các ứng dụng công nghiệp của trí tuệ nhân tạo thay thế. Ngay cả trong trường hợp này, vẫn có nguy cơ đáng kể về lợi ích không tương xứng cho một số ít người gây ra sự bần cùng hóa cho nhiều người. Tôn trọng phẩm giá của người lao động và tầm quan trọng của việc làm đối với phúc lợi kinh tế của cá nhân, gia đình và xã hội, an toàn việc làm, và mức lương công bằng phải là ưu tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế khi những hình thức công nghệ này ngày càng thâm nhập sâu hơn vào nơi làm việc của chúng ta.
Ngày nay, khi nhìn vào thế giới xung quanh, chúng ta không thể tránh khỏi những vấn đề mang tính đạo đức nghiêm trọng liên quan đến lãnh vực vũ khí. Khả năng tiến hành các hoạt động quân sự thông qua các hệ thống điều khiển từ xa đã làm suy yếu nhận thức về sự tàn phá do các hệ thống vũ khí đó gây ra cũng như gánh nặng trách nhiệm trong việc sử dụng chúng, góp phần tạo nên một cách tiếp cận thậm chí còn lạnh lùng và xa vời hơn trước thảm kịch chiến tranh nghiêm trọng. Việc theo đuổi các công nghệ mới nổi trong lãnh vực được gọi là Hệ thống vũ khí tự động gây chết người, bao gồm cả việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong chiến tranh, là nguyên nhân chính gây lo ngại về đạo đức. Hệ thống vũ khí tự động không bao giờ có thể là chủ thể chịu trách nhiệm về mặt đạo đức. Khả năng độc quyền của con người trong việc phán đoán và ra quyết định mang tính đạo đức không chỉ là một tập hợp các thuật toán phức tạp, và khả năng này không thể bị quy giản thành việc lập trình cho một cỗ máy, dù nó “thông minh” đến đâu đi nữa thì nó vẫn chỉ là một cỗ máy. Vì thế, điều bắt buộc là phải đảm bảo sự giám sát đầy đủ, có ý nghĩa và nhất quán của con người đối với các hệ thống vũ khí.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua khả năng các vũ khí tinh vi rơi vào tay kẻ xấu, tạo điều kiện cho các cuộc tấn công khủng bố hoặc các hành động can thiệp nhằm gây bất ổn cho các thể chế của hệ thống chính phủ hợp pháp. Tóm lại, thế giới thực sự không cần những công nghệ mới góp phần vào sự phát triển bất công của thương mại và thị trường vũ khí, và hậu quả là thúc đẩy sự điên rồ của chiến tranh. Nếu làm như vậy, không chỉ trí tuệ mà cả trái tim con người cũng sẽ có nguy cơ ngày càng trở nên “nhân tạo”. Những ứng dụng công nghệ tiên tiến nhất không nên được sử dụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các xung đột bằng bạo lực, mà để mở đường cho hòa bình.
Ở một viễn cảnh tích cực hơn, nếu trí tuệ nhân tạo được sử dụng để thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện, nó có thể mang lại những đổi mới quan trọng trong nông nghiệp, giáo dục, và văn hóa, cải thiện mức sống của toàn thể các quốc gia và dân tộc, phát triển của tình huynh đệ nhân loại và tình bằng hữu xã hội. Cuối cùng, cách chúng ta sử dụng trí tuệ nhân tạo để dung nạp những anh chị em nhỏ bé nhất, những người dễ bị tổn thương, và những người cần được giúp đỡ nhất, sẽ là thước đo thực sự về nhân tính của chúng ta.
Quan điểm nhân văn đích thực và ước muốn về một tương lai tốt đẹp hơn cho thế giới chắc chắn cho thấy sự cần thiết phải có cuộc đối thoại liên ngành nhằm phát triển các thuật toán một cách có đạo đức - một đạo đức thuật toán - trong đó các giá trị sẽ định hình hướng đi của các công nghệ mới[12]. Những vấn đề về mặt đạo đức cũng cần được tính đến ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, cũng như trong các giai đoạn thử nghiệm, thiết kế, sản xuất, phân phối và tiếp thị. Đây là cách tiếp cận đạo đức lập kế hoạch, trong đó các tổ chức giáo dục và những người chịu trách nhiệm ra quyết định có vai trò thiết yếu.
Sự phát triển của công nghệ tôn trọng và phục vụ nhân phẩm có những tác động rõ ràng đối với các tổ chức giáo dục và thế giới văn hóa. Bằng việc nhân rộng những khả năng truyền thông, công nghệ kỹ thuật số đã giúp chúng ta có những cách thức gặp gỡ mới. Tuy nhiên, việc suy tư thường xuyên về các loại tương quan mà chúng đang hướng chúng ta tới vẫn tiếp tục là điều cần thiết. Những người trẻ đang lớn lên trong môi trường văn hóa tràn ngập công nghệ, và điều này không thể không thách thức các phương pháp giảng dạy, giáo dục và đào tạo của chúng ta.
Giáo dục sử dụng các dạng trí tuệ nhân tạo trước hết phải nhằm mục đích thúc đẩy tư duy phản biện. Người sử dụng ở mọi lứa tuổi, nhất là giới trẻ, cần phát triển khả năng phân định trong việc sử dụng dữ liệu và nội dung thu thập trên trang web hoặc do hệ thống trí tuệ nhân tạo tạo ra. Các trường học, đại học và hiệp hội khoa học được kêu gọi giúp đỡ sinh viên và các chuyên gia nắm bắt các khía cạnh xã hội và đạo đức của việc phát triển và sử dụng công nghệ.
Việc đào tạo cách sử dụng các phương tiện truyền thông mới không chỉ xem xét thông tin sai lệch, và “tin giả”, mà còn cả sự bùng phát lại đáng lo ngại về “những nỗi sợ hãi từ bao đời truyền lại… có thể ẩn nấp và lan truyền đằng sau những kỹ thuật mới”[13]. Thật không may, một lần nữa chúng ta thấy mình phải chiến đấu với “cơn cám dỗ tạo ra nền văn hóa xây tường, dựng lên những bức tường… để ngăn ngừa cho khỏi giáp mặt với các nền văn hóa khác, với các dân tộc khác”[14], và phải phát triển sự chung sống hòa bình và huynh đệ .
Quy mô toàn cầu của trí tuệ nhân tạo cho thấy rõ rằng, bên cạnh trách nhiệm của các quốc gia có chủ quyền trong việc quản lý việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong nội bộ, các tổ chức quốc tế có thể đóng vai trò quyết định trong việc đạt được các thỏa thuận đa phương cũng như điều phối việc áp dụng và thực thi hiệp định đó[15]. Để đạt được mục tiêu này, tôi kêu gọi cộng đồng toàn cầu các quốc gia cùng hợp tác thông qua một hiệp ước quốc tế mang tính ràng buộc nhằm quản lý việc phát triển và sử dụng trí tuệ nhân tạo dưới nhiều hình thức. Tất nhiên, mục đích của quy định không chỉ là ngăn chặn những hành vi có hại mà còn khuyến khích những cách thực hành tốt nhất, cổ võ những phương pháp tiếp cận mới và sáng tạo cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến cá nhân và tập thể[16].
Trong quá trình tìm kiếm các mô hình mang tính quy phạm có thể cung cấp hướng dẫn đạo đức cho các nhà phát triển công nghệ kỹ thuật số, điều cần thiết là phải xác định các giá trị nhân văn làm cơ sở cho nỗ lực của xã hội trong việc xây dựng, áp dụng, và thực thi các khuôn khổ pháp lý cần thiết. Công việc soạn thảo các hướng dẫn đạo đức để sản xuất các dạng trí tuệ nhân tạo không thể bỏ qua việc xem xét các vấn đề sâu xa hơn liên quan đến ý nghĩa của sự hiện hữu của con người, việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người, và việc theo đuổi công lý và hòa bình. Quá trình phân định mang tính đạo đức và pháp lý này có thể chứng tỏ một cơ hội quý giá để cùng suy tư về vai trò của công nghệ trong đời sống cá nhân và cộng đồng, cũng như về việc sử dụng nó như thế nào để có thể góp phần tạo ra một thế giới công bằng và nhân đạo hơn. Vì lý do này, trong các cuộc thảo luận về quy định về trí tuệ nhân tạo, cần lưu ý đến tiếng nói của tất cả các bên liên quan, bao gồm cả người nghèo, người bị thiệt thòi, và những người khác vốn thường không được lắng nghe trong quá trình ra quyết định mang tính toàn cầu.
***
Tôi hy vọng rằng suy tư trên đây khuyến khích những nỗ lực nhằm đảm bảo rằng sự tiến bộ trong việc phát triển các hình thức trí tuệ nhân tạo cuối cùng sẽ phục vụ cho tình huynh đệ và hòa bình của con người. Đó không phải là trách nhiệm của một số ít người mà là của toàn thể gia đình nhân loại. Thực vậy, hòa bình là kết quả của những mối tương quan nhìn nhận và chào đón người khác trong phẩm giá bất khả nhượng của họ, cũng như của sự hợp tác và dấn thân trong việc tìm kiếm sự phát triển toàn diện của mọi cá nhân và mọi dân tộc.
Lời cầu nguyện của tôi vào đầu năm mới đó là mong sao sự phát triển nhanh chóng của các hình thức trí tuệ nhân tạo sẽ không làm gia tăng quá nhiều bất bình đẳng và bất công hiện có trên thế giới, nhưng góp phần giúp chấm dứt chiến tranh và xung đột, đồng thời giảm bớt nhiều hình thức đau khổ đang ảnh hưởng đến gia đình nhân loại chúng ta. Cầu mong các tín hữu Kitô, các tín hữu thuộc các tôn giáo khác nhau, và những người nam nữ thiện chí cùng cộng tác hài hòa để tận dụng các cơ hội và đối diện với những thách thức do cuộc cách mạng kỹ thuật số đặt ra, đồng thời trao lại cho các thế hệ tương lai một thế giới liên đới, công bằng, và hòa bình hơn.
Từ Vatican, ngày mồng 08 tháng 12 năm 2023
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va (14. 12. 2023)
[1] Hiến chế Gaudium et Spes, 33.
[2] Hiến chế Gaudium et Spes, 57.
[3] X. Thông điệp Laudato Si’ (24.05.2015), 104.
[4] X. Laudato Si’, 114.
[5] Diễn văn cho các tham dự viên trong Hội nghị “Minerva Dialogues” (27.03.2023).
[6] X. Sđd.
[7] X. Sứ điệp gửi Chủ tịch điều hành của “Diễn đàn Kinh tế Thế giới” (World Economic Forum) tổ chức ở Davos (12.01.2018).
[8] Xem Thông điệp Laudato si’, số 194 ; Diễn văn dành cho các tham dự viên Hội thảo “Công ích trong kỷ nguyên kỹ thuật số” (“The Common Good in the Digital Age”) (27/09/2019).
[9] Tông huấn Evangelii Gaudium (24.11.2013), 233.
[10] X. Thông điệp Laudato Si’, 54.
[11] Xem Diễn văn cho các tham dự viên Đại hội toàn thể của Học viện Giáo hoàng về Sự sống (ngày 28 tháng 2 năm 2020)
[12] X. Sđd.
[13] Thông điệp Fratelli Tutti (03.10. 2020), 27.
[14] Sđd.
[15] X. Sđd., 170-175.
[16] X. Laudato Si’, 177.