Foyer De Charité là một hiệp hội giáo dân sống đời thánh hiến trực thuộc giáo hoàng với tầm mức quốc tế.
Đặc sủng của hiệp hội là sống hiệp nhất hai chức tư tế trong hiệp thông huynh đệ với nhau và sống tình con thảo chung quanh một linh mục mệnh danh là linh phụ. Và được trao sứ vụ truyền giáo trong lòng Giáo Hội là mở ra các cuộc TĨNH TÂM CĂN BẢN trải dài trong sứ vụ trong mọi nơi, mọi thời. Từ đây các tuần tĩnh tâm căn bản trở thành nòng cốt và nét đặc trưng trong sứ vụ của ơn gọi Foyer de Charité.
Có thể nói Công trình Foyer de Charité được sinh ra dưới chân Thập Giá. Chúa Giêsu còn nói về công trình phải là Ngôi nhà của Thánh Tâm Chúa mở rộng cho mọi thời. Là ốc đảo tiếp đón mọi người đến tìm lại sự bình an đích thực.
Từ đây các cộng đoàn Foyer cũng lần lượt sinh ra và lan rộng khắp thế giới cách tiệm tiến như Ý Chúa muốn: “Ta muốn công trình được cắm rễ đến tận nơi xa xôi nhất thế giới” (BVSL). Hôm nay Công Trình Foyer de Charité đã và đang có mặt trên 80 quốc gia lan rộng khắp thế giới.
Các Foyer de Charité Việt Nam
Tại Việt Nam hôm nay cũng có sự hiện diện của Ba Cộng đoàn Foyer de Charité. Tại Giáo Phận Sài Gòn có hai Cộng đoàn và một Cộng đoàn tại Giáo Phận Xuân Lộc.
Vào năm 1968 Foyer de Charité Bình Triệu được hình thành do Cha Phaolô Võ Văn Bộ Linh phụ tiên khởi.
Vào năm 1970: Foyer de Charité Di Linh được hình thành tại Di Linh thuộc giáo phận Đà Lạt, do Cha Phanxicô Đào Duy Nhất (Guy de Reyniès) là một linh mục Thừa Sai Truyền Giáo Paris (MEP) Pháp quốc làm Linh Phụ tiên khởi, với ba thành viên đầu tiên do Linh Phụ Bình Triệu là Cha Phaolô Võ văn Bộ gửi lên; đó là ba Chị: Agathe Lương Thị Vân; Monique Hàn Thị Chắt và Magarita Nguyễn Thị Thêu; sau đó Linh Phụ Phaolô Võ Văn Bộ tiếp tục gửi lên thêm các thành viên nam, nữ để phụ giúp Linh Phụ Phanxicô Đào Duy Nhất xây dựng cộng đoàn và đón tiếp tĩnh tâm. Lúc đó Chị théophanne Nguyễn Viên là chị Trưởng cộng đoàn (nay Chị đang phục vụ tại cộng đoàn Trung Ương)
Foyer de Charité Di Linh được thành lập và lớn mạnh ngay trong những năm đầu để thi hành sứ vụ của công trình qua việc tiếp đón và tổ chức các tuần tĩnh tâm căn bản cho dân Chúa. Nhưng thánh Ý Chúa, kế hoạch của Thiên Chúa khác với kế hoạch của con người. Giờ đã đến, giữa lúc con người tưởng chừng là tốt đẹp, bền vững và phát triển, thì một biến cố lớn của đất nước đến làm đảo lộn mọi chương trình của con người lúc bấy giờ. Foyer de Charité Di Linh cũng không tránh được khỏi. Chiến tranh, loạn lạc thay đổi từ chế độ này sang chế độ khác, một biến cố đã để lại biết bao đau thương ngỡ ngàng, một sự chia li đầy nước mắt và mất mát, một vết thương lòng khó phai khi nước mất nhà tan, Nhưng cũng là những bài học có giá trị lớn để thanh luyện đức tin của những người con Chúa. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Khi biến cố (thay đổi chế độ từ chế độ Cộng Hòa sang chế độ Cộng Sản) ập đến không có một chuẩn bị nào, sự sợ hãi bao trùm khi một số thành viên được nhà nước đến đưa đi tù giam không một tội danh, vào đến trại giam thì không biết được cuộc sống tương lai thế nào, sống chết ra sao, không thể biết ngày nào mình được tự do. Còn một số khác buộc phải trở về gia đình, Linh Phụ Phanxicô Đào Duy Nhất (Guy de Regnies) thì bị trục xuất về nước vì ngài là người ngoại quốc, còn nhà đất của cộng đoàn thì nhà nước sử dụng mãi mãi. Lúc này tưởng chừng mọi sự đã tan rã, mọi ước mơ, mọi tính toán đều tan chảy theo lịch sử thời gian vận hành của đất nước, theo cách nhìn của con người mọi sự đi đến ngõ cụt. Như rắn mất đầu, gà lạc mất mẹ, Cha con bị chia lìa, nhà cửa cũng không còn, tương lại đen tối biết đi đâu về đâu lúc này? Đau khổ, sợ hãi, thất vọng, cô đơn đến tột cùng, còn đau khổ, còn lạc lõng nào hơn lúc này không? Cuộc sống như không còn điểm tựa. Đây là một yêu sách của đức tin và hy vọng. Chới với lúc này tin vào ai! Ai có thể cứu mình mọi thứ đi đến bế tắc? Con người hay Thiên Chúa?
Như Đức Maria dù gian nan nhưng Đức Mẹ vẫn lần mò bước đi trong đêm tối của đức tin với niềm trông cậy vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vậy, những gian nan khốn khó ngày càng nhiều, các thành viên Foyer de Charité cũng vẫn bước đi trong tăm tối của đức tin mà không một chút nghi ngờ lòng thương xót của Thiên Chúa. Trái lại, họ luôn thắp lên tia hy vọng dưới bàn tay của Thiên Chúa quan phòng dẫn dắt để không chùn bước trước những gian nguy của cuộc sống xã hội. Như Thánh Phaolô viết: “không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa…” Các thành viên Foyer de Charité Di Linh một lòng xác tín “vì đối với Thiên Chúa thì không có gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1, 37). Thiên Chúa có cách thực hiện theo Thánh Ý Người muốn, Người thực hiện bằng cách vẽ những con đường thẳng từ chính con đường cong để cho chúng ta thấy quyền năng tình thươngvà ý định của Thiên Chúa khác với những suy nghĩ của con người, đối với Chúa không có gì mà lại không trở nên lành nên thánh cho những ai đặt trọn niềm tin tưởng nơi Người.
“Người gieo giống ra đi gieo giống, đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên bằng cách nào, thì người ấy không biết.” (Mc 4,27-28). Thiên Chúa đã thấu cảm nỗi khổ của dân Người mà ra tay giải cứu.
Năm 1978: các thành viên của Foyer De Charité Di Linh được nhà nước cho về tự do. Lúc này tay trắng các thành viên sống một cuộc sống đầy thách thức và khó khăn cả về tinh thần lẫn vật chất, Linh Phụ không còn, anh chị em tản mác biết đâu mà tìm, bơ vơ, bấp bênh lúc này chân ướt chân ráo không có nhà, không có thức ăn, không nơi nương tựa cũng chưa biết làm thế nào để tìm, liên lạc với anh chị em, làm sao mà sum họp đây? Nỗi đau và sự cô đơn càng thêm nặng nề hơn bao giờ hết, cả một bầu trời xám xịt bao trùm, những yêu sách của cuộc sống hé lộ phía trước. Bỏ cuộc về với thế gian hay trung thành với ơn kêu gọi sống chứng nhân âm thầm giữa thế gian? Nếu trung thành với ơn gọi thì tương lai sẽ đi về đâu? Có gì bảo đảm? Ngay giây phút hiện tại còn mờ mịt thế này thì nói gì cho ngày mai! Một chọn lựa táo bạo! Cho dù khó khăn, đau khổ bủa vây, nỗi sợ hãi ám ảnh vì không còn chỗ tựa nương, nhưng chính niềm tin, lòng cậy trông tín thác vào ơn Chúa quan phòng đã là động lực thúc đẩy cho các Thành Viên vượt qua, kiên quyết không bỏ cuộc. “Không! không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, phải chăng là gian truân khốn khổ đói rách, hiểm nguy gươm giáo, bắt bớ, tù đầy….”
Nhưng cái gì đã giúp các thành viên trung thành với đức tin, trong ơn gọi mà mình đã được kêu gọi và chọn để bước vào trong đặc sủng của công trình Foyer de Charité? Chẳng phải là Đức Cậy vững vàng, cùng với ơn Chúa qua sức mạnh của tình yêu mà các thành viên muốn dành trọn vẹn cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh? Chính lòng trung thành với ơn gọi mà các Chị đã tâm niệm rằng: “Anh em đừng sợ, Thầy sẽ ở cùng anh em”. Nhờ niềm cậy trông vững chắc vào Thiên Chúa đã gọi và chọn mình trong ơn gọi này, mà các chị vững vàng bước tới cùng với sự dẫn dắt của Đức Mẹ thì dù khó khăn mấy cũng sẽ qua. Quả là những chứng nhân âm thầm nhưng thật sống động và thiết thực cần thiết cho thời đại. Các Chị đã gắn bó với ơn gọi bằng cách cộng tác với ơn Chúa, chị em luôn gắn bó với nhau, sống tình huynh đệ thắm thiết, không ai tự tách ra để về sống với ba mẹ mà bỏ chị em lúc cùng cực này, các chị quyết tâm no đói có nhau. Thiên Chúa không thua lòng cậy trông của các anh chị, Thiên Chúa đã chạnh lòng thương trong lúc khó khăn bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt. Ý Chúa quan phòng soi dẫn; Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đã sai Cha Giuse Phạm Văn Đẩu Giáo xứ Tân Đức tạm thời làm linh hướng trông coi các Chị trong thời gian đầu để cùng nhau cầu nguyện và tìm ra ý Chúa.
Tuy nhiên vì thời cuộc ngặt nghèo, không thể sinh hoạt chung với nhau theo nhóm lớn vì vẫn còn đó những cấm cách của chính quyền, những nghi ngờ của xã hội lúc đó còn đang kỳ thị tôn giáo, hai bên chưa hiểu nhau, các thành viên lại một lần nữa tách đôi thành hai nhóm nhỏ, một nhóm ở Sài Gòn bây giờ là Foyer de Charité Cao Thái, một nhóm ở Đồng Nai bây giờ là Foyer de Charité Phú Dòng.