Viết theo lời cha Phaolô VÕ VĂN BỘ, Linh phụ thành lập Foyer de Charité Bình Triệu, Foyer đầu tiên của Việt-Nam mà cũng là của cả Châu Á.
(Chữ nghiêng là nguyên văn lời Linh phụ Phaolô)
“Đầu năm 1948, có bốn Linh mục Hội Thừa Sai Balê (MEP) lên coi sóc các xứ đạo người Kinh và người Thượng (Giáo phận Đàlạt)”
Lúc bấy giờ cha Phaolô Võ văn Bộ là Cha Sở giáo xứ Di linh. Chính cha đã xây cất nhà thờ giáo xứ và đến năm 1952, cha xin Chính quyền được một thửa đất 4 mẫu trồng trà ở làng Đồng Lạc cho Giáo phận, cách thị trấn Di linh khoảng 6 km về phía Bắc.
“Vào một buổi trời thanh tịnh, tôi đi thăm một linh mục người Pháp (trong số 4 vị linh mục Thừa Sai) tên là BOUTARI, được người cho xem mấy bức hình Nhà Bác Ái Châteauneuf-de-Galaure và được người thuật chuyện đã dự một TUẦN PHÒNG rất sốt sắng đặc biệt, làm cho lòng tôi xao xuyến và ao ước có dịp sẽ tham dự. Đây là tiếng gọi đầu tiên về Foyer de Charité, luôn phất phơ trong trí”…
“Tiếp đến là tiếng kêu gần, là Đức Khâm Mạng Tòa Thánh tại Sài gòn, là Đức Cha ANGELO PALMAS , gọi tôi đến văn phòng Ngài ở đường Hai Bà Trưng, Sài gòn. Đức Khâm Sứ bảo tôi đi tìm mua một sở đất để cất nhà dành riêng cho các Linh mục cao niên, để các ngài vừa nghỉ hưu, vừa làm phúc giải tội. Tôi đi trình lại với Đức Tổng Giám Mục Phaolô NGUYỄN VĂN BÌNH xin ý kiến của ngài. Ngài vui vẻ bảo tôi đi xem và lựa chọn nơi nào thuận tiện, đó là đầu tháng Tư 1966…
Mấy tuần lễ liên tiếp đi tìm kiếm và hỏi thăm người quen hướng dẫn, sau cùng tôi gặp được cha BÌNH, quản lý trụ sở cho Giáo phận Hải Phòng, đưa tôi đi xem một thửa đất rộng lớn, tới 12 mẫu rưỡi với giá bán là 25 triệu đồng bạc. Được ông chủ đất vui vẻ mời phái đoàn Tòa Tổng Giám Mục đi tham quan. Địa điểm rất thuận lợi về mặt tiền đường và phía sau là sông lớn (sông Bình Lợi)…
Ít ngày sau, Đức Tổng Giám Mục gọi tôi đến và bảo lại: Tòa Tổng Giám Mục không đủ khả năng, xin cha tự lo liệu.
Riêng phần tôi vẫn trông cậy vào Đức Mẹ FATIMA, như thánh ý Chúa muốn…Thỉnh thoảng cha Lê vĩnh Khương, Giám Đốc Công Giáo Tiến Hành Giáo phận tới hỏi thăm công việc tới đâu rồi. Tôi trả lời: vẫn cầu nguyện…Ông chủ đất cũng thường xuyên hỏi…Sau cùng tôi trả lời dứt khoát: xin hẹn ông chủ trong hai tuần lễ sẽ trả lời.
Thật là ơn trên xui khiến: trong hai tuần tôi bán đủ số tiền 25 triệu, chỉ dành để phần (đất) nào cần. Cũng trong hai tuần lễ này, Đức Tổng Giám Mục gọi tôi, xin nhường cho ngài một ít để lập họ nhỏ, riêng hai lô cho tài xế và chị bếp.
Trả tiền mua xong, […] tôi mới đi đặt làm một bức tượng Đức Mẹ Fatima cao 3 thước, lo xây trụ đài và bàn thờ dâng lễ cho kịp khánh thành ngày 15. 8. 1966”
“Vì Đức Tổng có mua phần đất ngoài đầu đường nên ngày 08. 12. 1966, Đức Tổng lên làm phép viên đá đầu tiên cho Thánh đường CHÚA GIÊSU THÁNH THỂ và FOYER de CHARITÉ (sau này)…
Đây là Tiếng Gọi từ Trời cao gởi xuống: Đức Tổng cho phép tôi đi nước ngoài lo việc học hỏi về việc giảng Cấm Phòng, thêm luật Dòng Ba Cát Minh.
Giấy xuất cảnh xong. Đầu tháng 2. 1967, tôi đáp tàu bay qua Thái Lan để xuống tàu thủy sang Pháp.
Qua tới Pháp tôi ghé trung tâm NOTRE DAME DE VIE, lo việc đào tạo sống thinh lặng hai tuần, lên Bordeaux ghé Dòng CARMEL, học hỏi việc Hội Dòng Ba Cát Minh. Lần lượt lên Balê, liên lạc với Cha FINET (Linh phụ Tổng Quyền các Foyer de Charité), ngài hỏi giấy giới thiệu của Đức Tổng Giám Mục, ngài gởi tôi sang Foyer SPA (Bỉ), nơi đào tạo Trung Tâm Bác Ái cho các nước Truyền Giáo. Nơi đây gặp được 3 Linh mục các nước khác như Linh mục Claessens (Bỉ), Linh mục QUET (Đài loan), Linh mục CATÉGÉRA (Phi Châu).
Được 4 tháng, cha Finet gọi về Châteauneuf để gặp cha và chị Marthe Robin mỗi tuần một lần, dự những tuần phòng, sống với cộng đoàn hằng ngày, hỏi han trình bày thắc mắc việc huấn luyện các nội tá (thành viên)...
Sau 5 tháng, trở về lại SPA, tiếp tục học tu đức với Linh mục Schmitt của Foyer Ottrott… Qua hết một năm, thì đầu tháng 01 năm 1968, cha Finet lại sang Bỉ dâng Thánh lễ Sai đi (Messe d’envoi) và phát cho mỗi Linh mục một cây THÁNH GIÁ.Và trước khi giả từ SPA, cha OURY (Linh phụ Foyer SPA) đưa bốn anh em lên đền Đức Mẹ ở BANNEUX dâng lễ Tạ ơn và cầu bằng an trở lại quê nhà.
Đến nửa tháng 03 năm 1968 tôi đáp tàu bay trở về Sàigòn.
Đến tháng 04, có cha Guy de Reyniès từ Balê sang Việt Nam, tìm nơi lập Foyer. Trước hết ngài đến Foyer Bình Triệu hỏi thăm ngày khai mạc tuần Cấm phòng đầu tiên. Đó là ngày 26. 12. 1968. Vì Foyer đang cất nhà cấm phòng nên cha De-Reyniès trở về trụ sở Hội Thừa Sai Balê tại Sài gòn, thỉnh thoảng cha trở lên thăm, và dự TUẦN PHÒNG ĐẦU TIÊN với con số 21 người, trong số có 4 chị: Mát-ta DUYÊN, Rôsa QUÝ, Anna NGOAN và chị Agnès, người Trung hoa, là các thành viên đầu tiên của Foyer Bình Triệu.
Chưa có nơi ở nên cha De-Reyniès ở luôn Bình Triệu để tham dự các tuần phòng, thỉnh thoảng tôi nhờ cha giảng bằng tiếng Pháp cho một số người xin đặc biệt… […]
Cứ mỗi tháng có 2 tuần cấm phòng. Hầu hết mỗi tuần cấm phòng đều có thêm ơn gọi. Các ngày thứ Sáu trong tuần cấm phòng có bài nói về chị Marthe và chuẩn bị cho mỗi người dâng mình tận hiến cho Đức Mẹ để giúp những người cấm phòng trở về gia đình, mỗi ngày vẫn đọc kinh Tận hiến do bản kinh được dịch ra tiếng Việt và phát cho mỗi nguời, có người xin thêm để cả gia đình cùng dâng mình cho Đức Mẹ.
Sau hai năm tức năm 1970, cha De-Reyniès mới có nơi thành lập Foyer thứ hai, tại Đồng lạc – Di linh, trên thửa đất tôi đã xin được cho Giáo phận Đà lạt năm 1952, cũng là việc Chúa và Đức Mẹ dọn đường trước. Tôi chia 2 ơn gọi của Bình Triệu cho cha De-Reyniès…
Đầu năm 1970, tôi xây dựng Đài Đức Mẹ thành ngôi Đền Thờ Đức Mẹ Fatima.
Qua một năm, nhà thờ và nhà cấm phòng không còn đủ chỗ, tôi cho xây (trên khu đất mặt tiền đường) ngôi nhà thờ lớn CHÚA KITÔ THÁNH THỂ và khu nhà cấm phòng mới, 2 lầu với 120 phòng, nhưng vẫn thiếu chỗ...
Lễ Khánh thành Nhà Thờ và Khu Foyer mới: Ngày 06. 01. 1973, LỄ HIỂN LINH” ❄
Foyer Cao-Thái.