Chị Marthe Robin có những phản ứng sâu sắc cách nào trước hàng loạt ân huệ Thiên Chúa và có kèm theo biết bao đau khổ? Chị đầy lòng tri ân Thiên Chúa đã ban cho chị ơn được ở rất gần Chúa, tận trong cuộc Thương khó của Người. Thứ Tư, ngày 9 tháng 1 năm 1935, chị viết:
Tôi ôm ấp mỗi ngày, với lòng tri ân mới và niềm vui mới, công việc bao la Đấng Cứu Chuộc đã giao cho tôi, và tạ ơn Người đã ban cho tôi món quà kỳ diệu là chén, vòng gai, đinh và thập giá của Người, tạ ơn Người đã cho tôi được sống và tiếp tục cơn hấp hối kéo dài và đau đớn và tất cả cuộc Thương khó của Người và sau hết tạ ơn Người đã ghi khắc trong tôi cách rất kỳ diệu và sâu sắc cuộc đời đau khổ và tạ ơn của Người.
Thực tế, chính Chúa đã trở nên gần chị một cách không thể tin được. Chị có được kinh nghiệm cao trọng nhất cho một người phàm, đó là cảm nhận Thiên Chúa sống trong chị. Ngày 26 tháng 1 năm 1932, chị viết:
Chẳng bao giờ tôi đã được ở trong một trạng thái được biến đổi rất toàn vẹn thành nhân tính đáng tôn thờ, chịu đau khổ và yêu thương của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu đồng hoá, hấp thu, tát cạn, làm tiêu tan con người tôi trong Chúa… Đời sống mới được tăng thêm phó thác và tình yêu! Hơn bao giờ hết được giao phó cho hành động biến đổi của Thánh Thần… cho Chúa Giêsu, cho Đức Kitô–Thánh Thể để trở nên giống hình ảnh Người.
Chị không sống ân huệ đó cho chị. Trong các bút ký của chị, người ta thấy chị ám chỉ những người thân yêu, những điều chị quan tâm đặc biệt, cách riêng, sự thánh thiện của các linh mục, chị nói: “A! Tôi rất mong muốn chỉ cho mọi người thấy Chúa Kitô đầy lòng thương yêu và thương xót, để kéo họ đến với Thiên Chúa”. Chị Marthe ngày càng có ý thức hơn về vai trò chuyển cầu của chị. Chị đưa vào trong cầu nguyện những linh hồn chị quen biết, nhưng chị cũng ngày càng nới rộng chân trời trong lãnh vực này. Người ta gửi gắm cho chị những ý nguyện. Chị cũng tự nguyện quan tâm đến những sự việc vượt quá tầm hoạt động của chị, khi bắt đầu với giáo xứ của chị và sự thánh thiện của các linh mục. Căn phòng của chị bắt đầu trở thành trung tâm mạng lưới cầu nguyện ngày càng lan rộng không ngừng, cho đến khi chị từ trần. Đời sống nội tâm không chỉ liên quan tới chị mà thôi. Sự kiện đồng hoá với Đức Kitô thể hiện việc thi hành giới răn thứ nhất: yêu mến Thiên Chúa. Tuy nhiên, chị hết sức mong mỏi thi hành giới răn thứ hai: yêu thương tha nhân bằng cách thí mạng sống vì người anh em, như Đức Kitô đã làm trước nhất. Như vậy chị đã thực hiện bằng việc hằng ngày dâng đời sống đau khổ của chị. Chị mang trong mình một phần nào tương lai của Giáo hội và của nhân loại, cũng như mỗi người trong chúng ta vẫn làm, mà thường không hay biết. Tuy nhiên, đối với chị Marthe, hành động đó hữu ý và được tháp nhập. Chị bước vào một cuộc chiến đấu thu hút chị cách kỳ diệu, tiêu hao chị, và chị chiến đấu toàn lực cho đến cùng.