Con người vẫn luôn đứng trước cám dỗ muốn “đi đường tắt”, muốn loại trừ tha nhân ra khỏi hành trình cuộc đời, muốn “chiếm đoạt” và hoàn thành vận mạng của mình bằng những gì hoàn toàn thuộc về mình, hoàn toàn theo cách thế của mình. Thay vì an bình, tin tưởng đi vào lịch sử nghĩa tình, từng ngày sống thái độ tín trung, từng việc biết trao đổi, và nhất là biết nhận ra tính cách độc đáo riêng biệt của tha nhân để khẩn cầu, để tri ân tình thương của tha nhân, thì con người lại thường muốn một mình, dùng một phương thế có tính kỹ thuật, để thăng tiến bản thân và đạt tới mục đích đời mình.
Gặp gỡ và đồng hành với tha nhân quả là một chuyện rắc rối. Cuộc sống với tha nhân làm cho ta phải bận tâm nhiều chuyện: giận hờn, hòa giải, lo lắng, chiều ý, lễ nghĩa, liên đới, trách nhiệm… Đó là chưa kể những mối tương quan đấu tranh mà ta cần phải cảnh giác, khôn khéo, bản lãnh, nắm đàng chuôi,… Triết gia J.P. Sartre không phải không có lý khi nói “Tha nhân là hỏa ngục”.
Trước bao nhiêu chuyện rắc rối như thế, người ta càng ngày càng có khuynh hướng muốn ổn định cuộc sống bằng hệ thống luật pháp chặt chẽ; càng ngày càng muốn thay thế những mối tương quan tình nghĩa bằng những dịch vụ tiện ích; càng ngày càng muốn tiêu chuẩn hóa tất cả mọi tương quan, thay vị tự thể hiện mình trong tương quan người với người. Sống trong xã hội hiện đại ngày nay, người ta cần hiểu biết các phương thức và khôn ngoan lựa chọn giải pháp chứ không cần những thái độ “lãng mạn” của tình người. Cuộc sống trở thành một kỹ thuật mà người ta có thể huấn luyện trong những khóa học cấp tốc.
Có một thời người ta lý luận rằng gia đình không còn giá trị cho cuộc sống con người hiện đại. Những người ấy cho rằng: xưa kia, người ta lập gia đình là để nương tựa vào nhau và củng cố sức mạnh cho nhau về nhiều phương diện; đồng thời khi sinh sản con cái, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng, người ta có thể cậy nhờ lúc tuổi già. Thế nhưng cách thức ấy hiện nay không còn hiệu quả. Thay vào đó, người ta có thể thuê người nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa; gửi tiền vào ngân hàng hoặc có những biện pháp ngăn ngừa trộm cắp khác; đóng tiền vào nhà dưỡng lão để an ổn tuổi già. Nhu cầu tình dục thì không khó giải quyết. Thế là người ta có thể vui sống với một con chó, hoặc con mèo thân thương của mình.
Phản ứng lại những đấu đá trong xã hội, một số người khác lại muốn trốn tránh mọi rắc rối, tìm an thân bằng cuộc sống cô liêu, không đua tranh, chẳng lụy phiền, không lý tưởng cũng chẳng tâm huyết gì. Chúng ta cũng thấy thái độ tương tự trong những lập trường minh triết của một số triết gia, một số tư tưởng thoát tục Đông phương : tìm sự thanh thản[1].
Tuy vậy, từ thái độ sống “kỹ thuật” của con người thời đại cho đến thái độ siêu thoát cao quí của những hiền nhân, chúng ta đều thấy một tính chất thực dụng chung. “Thực dụng kỹ thuật” và “thực dụng hiền triết” đều là từ chối gặp gỡ và đồng hành, đều là thái độ tự tìm thực hiện vận mạng của mình mà không cần đến tha nhân.
Con người chỉ có thể hoàn thành vận mạng của mình qua sự gặp gỡ và đồng hành. Bởi vì bản chất con người là yêu thương, nhưng không phải là tình yêu lãng mạn, bay bổng mà là một tình yêu thể hiện trong đời sống cụ thể hằng ngày. Chỉ khi thể hiện vận mạng của mình theo như “qui chế hiện hữu” của con người, một hữu thể tại thế, một sinh vật sống trong thời gian và hình thành đời mình qua một quá trình lịch sử, thì con người mới thực sự biết yêu thương chân chính là gì.
Được làm chủ thế giới, đó là hình ảnh hiên ngang cao cả của con người. Con người tìm thấy niềm vui khi lao động, chiếm hữu và sử dụng muôn vật. Niềm vui đó làm cho nhiều người tưởng rằng tất cả sứ mạng của mình, tất cả ý nghĩa đời mình hệ tại việc thống trị, khám phá, uốn nắn và sở hữu thế giới sự vật. Nhưng đó lại chính là một mục tiêu có tính thực dụng.
Thật ra nhiệm vụ “đặt tên cho muôn vật” không phải là nhiệm vụ chính yếu của con người, vì chính khi Adong hoàn thành sứ mạng đặt tên cho muôn vật, ông không gặp được người đương đối tương xứng :
“Giavê Thiên Chúa đã phán: không tốt, nếu người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp đương đối với nó . . . Và người đã đặt tên cho mọi thú vật và chim trời cùng mọi dã thú. Nhưng phần người, người vẫn không gặp được sự trợ giúp nào đương đối” [St 2, 18.20].
Như thế, con người cần một bước nhẩy để chuyển từ niềm vui chiếm hữu và thống trị sang niềm vui gặp gỡ và hiệp thông giữa người với người, một bước nhẩy từ thế giới sự vật sang thế giới nhân sinh. Con người cần phải đạt tới một cuộc bừng tỉnh trước vũ trụ để nhận ra tầm quan trọng của tương quan ngôi vị giữa con người với nhau. Từ cuộc bừng tỉnh ấy, con người mới biết sử dụng vũ trụ sự vật như phương tiện để gặp gỡ nhau, biến những thành quả trên vũ trụ sự vật thành những món quà dâng tặng cho nhau để thiết lập tình người.
Thực dụng chính là tình trạng, thái độ chết dí trong thế giới sự vật; tình trạng không còn muốn vươn lên đến thế giới nhân sinh và thế giới siêu nhiên. Tình trạng ấy làm nghèo nàn phẩm chất người. Phẩm giá con người bị hạ thấp xuống hàng sinh vật.
Thái độ ấy càng biểu hiện mạnh mẽ hơn trong thời đại ngày nay, khi nhân loại muốn dùng kinh tế để thỏa mãn mọi nhu cầu, chỉ muốn dùng tài năng để “lập thân”. Với thái độ này, tất cả bản chất cao quí của con người bị biến thành một sinh vật kinh tế. Người ta tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình, đánh mất những giá trị tinh thần, đánh mất phẩm chất tình yêu. Bao nhiêu những cuộc tranh giành quyền lợi, từ cấp độ thế giới đến cấp độ cá nhân; bao nhiêu nỗ lực vươn lên bằng cách đạp lên người khác đã và vẫn còn đang biến con người thành những sinh vật vồ mồi, xé nát thế giới tươi đẹp.
Chỉ khi vượt lên trên cái nhìn "duy nhiên" thực dụng để sống chiều kích nhân văn hoặc siêu nhiên, con người mới tìm thấy “môi trường sống” đích thực của mình; chỉ khi thoát khỏi thái độ thực dụng để sống thái độ trân trọng và chờ đợi, con người mới có thể sống với nhau trong tình nghĩa; chỉ khi nhìn thấy đàng sau sự vật bóng dáng những ngôi vị, con người mới có thể sử dụng sự vật như những người làm chủ; chỉ khi đặt sự vật trong mối tương quan ngôi vị, như là những chiếc cầu, như là những quà tặng, thì sự vật mới góp phần làm phong phú phẩm chất làm người chân chính.
Thế rồi, khi thái độ làm chủ và thống trị thế giới trở nên một “thói quen” của nhân loại, thói quen khiến người ta thích áp dụng dụng cụ để thống trị muôn vật vào những mối tương quan ngôi vị, tương quan giữa con người với nhau và tương quan với Thiên Chúa, thì con người lại rơi vào một phương thức sống có tính thực dụng. Con người biến mối tương quan ngôi vị trở thành mối tương quan thống trị, chinh phục, quyền lực. Điều ấy đã được tuyên án sau khi nguyên tổ phạm tội:
“Với chồng ngươi, ngươi hăm hở đon đả. Nhưng nó, nó sẽ thống trị ngươi” [St 3,16].
Với phong cách này, con người trở nên kẻ thích đi “con đường một chiều”, nghĩa là tìm cách uốn nắn thế giới theo ý của mình mà đánh mất đi một sự nhạy bén trong thái độ lắng nghe, đánh mất đi sự sẵn sàng để đón nhận tha nhân và chiều ý tha nhân, cần thiết và khẩn cầu tha nhân như điều không thể thiếu cho bản thân mình. Chiều hướng phát huy động lực chỉ còn là từ phía chủ thế tới đối tượng, những phản hồi đều bị tắc nghẽn.
Biểu hiện rõ rệt nhất của tình trạng ấy là khát vọng quyền lực. Người ta luôn đòi hỏi sự thay đổi của người khác theo ý mình mà không biết chờ đợi và trân trọng tha nhân như một chủ thể tự do và độc đáo; người ta muốn thấu hiểu trọn vẹn để làm chủ người khác chứ không biết chiêm ngắm và thán phục; người ta tìm đủ cách để uốn nắn, cắt tỉa, vặn vẹo tha nhân cho bằng được. Thế nhưng, thái độ độc tài ấy không bao giờ làm thỏa mãn khát vọng gặp gỡ chân chính. Do đó, người đi vào nẻo đường này thường càng ngày lại càng muốn gia tăng sự thống trị, gia tăng sự đàn áp để thực hiện cho được ý muốn cá nhân của mình. Chính những nhà độc tài, muốn sử dụng người khác như dụng cụ, đã đi vào nẻo đường này để rồi càng ngày càng độc ác hơn. Đó là nẻo đường cụt, vì tha nhân chẳng thể bao giờ luôn luôn thực hiện đúng ý mình hoàn toàn cả.
Tất cả những thái độ thực dụng, mục tiêu thực dụng và phương cách thực dụng đều không bao giờ có thể đi đến gặp gỡ và hiệp thông để có thể cất tiếng reo vui:
“Và nó đã nói: Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ đội danh là “đàn bà” vì đã được rút tự “đàn ông”. Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác” [St 2,23]
[1] Những học thuyết triết học Hy Lạp sau thời kỳ của Aristote đều nhằm tìm cái ataraxia, sự thanh thản; nghĩa là một cuộc sống tự chủ [pháp Khắc Kỷ] và hồn nhiên [Épicure], không vướng bận, không lo sợ, không đòi hỏi điều gì quá sức mình…