Vào đầu tháng 10 năm 1930, theo chứng cứ của cha Malmann chị Marthe lãnh nhận những dấu thánh. Chị cầu xin cho những dấu thánh không bị lộ ra. Như vậy trước tiên có sự kiện in dấu thánh bên trong chị. Chỉ sau đó hiện tượng trở nên rõ ràng.
Thực tế thập niên 1930, cô bạn của chị Marthe tên là Gisèle Signé đến thăm chị ở la Plaine: "Một ngày nọ, sau khi từ giã và hẹn gặp lại chị Marthe, tôi ra đi. Tôi đang ở ngoài sân. Bà mẹ Robin gọi tôi ‘Nè, cháu nhỏ’ tôi quay lại. ‘Bà muốn nói với con điều này. Bà rất phiền toái cho con nhỏ của bà, nó chảy máu’. Bà ra dấu cho tôi: tim, mặt (trán, mắt). Tôi nghĩ ngay ‘và đó là những dấu thánh. - Mà cái gì là dấu thánh? Bà đã tưởng là một thứ bệnh. Bà nói với tôi: ‘Con xem miếng vải này’. Vải dính đầy vết máu. Bà Robin nói: ‘Vải này, bà đã giặt đem nấu nước sôi. Bà tẩy bằng nước Javell nhưng không kết quả. Đó là gì vậy. Thật Mẹ Robin, không được giữ chuyện này cho bà. Chị Marthe phải nói cho cha sở biết’. Bà trả lời với tôi: ‘Marthe không cho bà nói, con cũng đừng nói với cha."
Chắc chắn, chứng từ này là dấu kỳ cựu nhất về sự kiện chị Marthe Robin được in dấu thánh thấy được. Chúng ta có được bản văn diễn tả cách chính xác nhất hiện tượng đó, nhờ chính chị Marthe. Năm 1942, chị trải qua một cuộc khám nghiệm sức khoẻ. Chị phải giải thích về những vết thương bất thường do các bác sĩ phát hiện. Chúng ta hãy xem cách các bác sĩ đó thuật lại những lời khai của chị Marthe: “Năm 1931, cuối tháng 10, đầu tháng 11, cô Robin bắt đầu đau đớn cuộc Thương khó ngày thứ Sáu. Một hiện tượng vẫn được lặp lại mỗi tuần [1] bắt đầu từ đó. Cùng lúc những dấu thánh xuất hiện trên mu bàn tay và mu bàn chân. Trước tiên các dấu thánh xuất hiện như những vết bầm máu mầu xanh đỏ lợt, đau đớn và kéo dài dưới hình thức này suốt hai năm. Sau đó, trên tay, chân và hông trái, rất gần giữa ngực, có những vết thương đau nhức thế nào vào những chỗ đó. Những vết thương ‘tróc da’ không chảy máu, không kết vảy. Vết thương chảy máu ngày thứ Sáu, và chỉ trong ngày thứ Sáu và biến dạng sáu tháng sau. Các dấu thánh mang một đặc tính khác: chỉ chảy máu ngày thứ Sáu, nhưng không vết thương và nhất là không xuất hiện thường xuyên. Trong năm 1934, 1935, và 1936 nhiều lần ngày Thương khó không có chảy máu: năm 1936, đặc biệt, các dấu thánh không xuất hiện trong vòng hai tháng”.
Chắc chắn, chúng ta được chị Marthe mô tả sự việc đã xảy ra chị viết ngày 14 tháng 11 năm 1931 như sau [2]: “Tôi thấy ngay chiếu giường tôi biến thành cây thập giá lớn đầy gai. Việc này đã xảy ra nhiều lần, và mỗi lần hành hạ hơn, bởi vì luôn luôn và nhiều yêu thương… Một tiếng nơi từ trong cho biết ngay: ‘Ta muốn con ở đó ngay từ bây giờ’. Sự biến đổi xảy ra đột ngột. Nỗi đau đớn mãnh liệt đến nỗi gây ra những cơn run rẩy rất khó chịu, các chi thể của tôi đều bị run và tôi cảm thấy tim tôi cháy”. Sau này, ông Jean Guitton hỏi chị: “Nhưng, người ta nói: Các dấu thánh cũng một lúc đem niềm vui rất lớn và đau đớn rất nhiều. Đúng cùng một lúc. Nhưng đừng tưởng đó là niềm vui nhân phàm hay khả giác. Đó là niềm vui đậm đà nhưng là ‘thần thiêng’. Một niềm vui hoàn toàn bên trong. Bởi vì là đau đớn tột độ, trước tiên ở bên trong, nếu Thiên Chúa không nâng đỡ, người ta sẽ chết, mà chị có thấy một cái dao, một ngọn lửa! – Có, một ngọn lửa cháy ở bên trong (và đôi khi ở bên ngoài). Một ngọn lửa phát ra từ Chúa Giêsu. Và tôi thấy ngọn lửa như một ánh sáng đỏ, màu sẫm, một ánh sáng đốt cháy”.
Mỗi ngày thứ Sáu, cho đến cuối đời, chị Marthe sống lại cuộc Thương khó. Thời hạn hiện tượng thay đổi với thới gian và ngày càng kéo dài. Mặc dầu chị rất kín đáo, nhưng cha thiêng liêng, theo dòng thời gian, chấp nhận một số người dự cuộc Thương khó đó. Ví dụ cuối năm 1933 hoặc đầu 1934 Đức Ông Soulas, Tổng Đại Diện giáo phận, hay cha Auric. Cha Faure hoặc Linh phụ Finet sẽ ghi chép. Một số người tham dự có để lại những chứng từ, đôi khi khá chi tiết. Hơn 50 người được hỏi trong vụ án phong thánh đã thấy máu chảy từ những vết thương nơi chị Marthe. Ví dụ cô Faure giáo viên tư thục ở Saint-Uze, nói: “Tôi đã thấy máu chảy từ con mắt của chị Marthe”. Kinh sĩ Berardier tuyên bố: “Chúng tôi đã thấy mồ hôi máu trên trán, những giọt máu chảy lần lần đặc lại, để lại những lằn đậm trên má, lần lần hoà với nước mắt thường”. Cha Auric viết: “Tôi đích thân đã chứng kiến mặt chị đầy máu: máu chảy từ những dấu thánh ở vòng gai nhọn, máu chảy thành giọt từ mắt xuống má”. Năm 1942, trong lúc khám nghiệm sức khoẻ, các bác sĩ cũng nhận thấy chỗ in dấu thánh ở trên đầu, trên mặt, và tay và một vết lớn máu trên ngực.
Đôi khi, như một ngày lễ kính Máu Thánh Rất Châu Báu, số lượng máu lớn đến nỗi phải lấy nhiều vải để thấm. Hai cô Alice Brosse và Madeleine Cheval cũng giúp mẹ chị Marthe giặt đồ mặc của chị Mathe.
Có rất nhiều người chứng kiến hiện tượng, nên không thể bàn cãi được. Các dấu thánh sẽ không trải dài suốt đời chị Marthe, trừ chỗ trên trán: người ta sẽ còn thấy lúc chị từ trần. Sự kiện các dấu thánh biến mất là trường hợp thường xảy ra nơi nhiều người được in dấu thánh. Nhưng cần tìm hiểu ý nghĩa.
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Lê Tấn Thành
[1] Theo cha Faure, những dấu thánh thấy được kể từ tháng 10 năm 1932.
[2] Khó định rõ thời điểm chính xác khi các dấu thánh xuất hiện bên ngoài, tiếp theo kinh nghiệm về việc các dấu thánh hiện diện bên trong. Tuy nhiên, trong sổ tay của cha Faure người ta kể tháng 10 năm 1932 có thể là thời điểm dấu thánh xuất hiện bên ngoài: “Không có dấu vết mồ hôi máu, đó là lần đầu tiên 1932 (tháng 10 theo tôi nghĩ)”.